Cả nhà đi nhà thờ. Tôi ngồi cạnh chị Tilly, sau lưng chị Cee, anh Steve và
ba đứa nhóc. Tôi ngắm những cái cổ trắng bong của ba cậu cháu trai, nghĩ
ngợi về ông Daniel và tấm bìa xoi các vì tinh tú. Mỗi lần chúng tôi quỳ
xuống, tôi nhận thấy chị Tilly nheo mắt, đôi tay đan chặt vào nhau, miệng
rầm rì khấn nguyện. Thánh đường cũng hợp với họ hơn tôi.
Hai chị em ở lại ăn cơm trưa. Hôm nay chị Cee thật là chăm chút, và hoà
thuận. Tính chị ấy sáng nắng chiều mưa, theo lời chị Cee là do thừa hưởng
từ mẹ. Chị ấy đã báo cái tin kia cho anh Steve, anh mỉm cười ra chiều thông
hiểu, đưa nước cho chị Tilly trong khi rót rượu chúng tôi. Khi cả nhà đang
ăn món bánh kem trứng sô-cô-la của chị Cee, Max thông báo là tôi biết một
pháp sư thứ thiệt. Tôi thấy chị Cee lườm tôi dò xét, nên cố cười khoả lấp
cho xong.
“Ông đó để lại bùa cho dì nữa đó,” thằng Max lại nói.
“Không có đâu,” tôi không nhìn Max. “Làm gì có.” Tôi cà muỗng vào
bát, mắt nhìn mấy cái khăn ăn màu trắng và nâu khéo hợp với những vòng
buộc khăn màu bạc, dưới sàn là tấm thảm có hình hoa quả. Tôi cần đi khỏi
đây. Tôi giúp dọn bàn, cắm đĩa vào máy rửa bát, dẹp mấy ly rượu vang. Chị
Cee bắt đầu pha cà phê.
“Em về đây, để xem tên Shaun đó làm tới đâu rồi.” Tôi nói. Rồi cảnh
tượng những cái tủ trong bếp của bố bị rứt khỏi tường khiến tôi đứng sững,
tay áp chặt vào miệng.
“Bộ em cũng có bầu hay sao?” Chị Cee đứng tựa hông vào máy rửa bát
mà hỏi.
“Đâu có.”
“Hay là em qua ở với chị một thời gian. Bên nhà cũ có gì vui đâu.”
Tôi ngó chị Cee, thấy chị nói thật lòng.
“Mình giết nhau mất,” tôi đáp.
Chị không cười mà lại buồn thiu. “Chị muốn em xem nhà chị là nhà của
em, Alice à.”