T
ôi dậy sớm trên chiếc giường đơn mà ngày xưa tôi thường giả bộ là tàu
biển, cảm thấy như bị ai đó bỏ một thùng đầy sỏi lên người. Bụng tôi kêu
réo, nhưng tôi chẳng muốn gặp ai, nên lẻn lên gác mái. Nó chứa đầy đồ bỏ
đi và mấy cái thùng carton cũ. Cái ghế lắc vẫn ở nguyên dưới cửa sổ mái.
Ngày xưa tôi từng cuộn mình trên đó và lắc, càng lúc càng mạnh, đợi tai họa
ập tới. Thường thì bố hoặc chị Cee sẽ kêu vọng lên cầu thang bảo tôi thôi đi.
Những lúc họ không có nhà, tôi lắc cho đến khi thấy mệt hoặc chán. Giờ tôi
ngồi vào ghế, để sức nặng của mình di chuyển nó tới lui. Trên này nhiều bụi
và ấm, dù bên ngoài mưa lạnh. Vẫn là tấm thảm cũ xấu xí màu lục chói. Nó
bị mòn chỗ dưới chân ghế lắc. Tôi lắng nghe những bản tin mã Morse của
mưa rơi trên cửa sổ mái. Lúc nào tôi cũng thích ngồi đây, nghe tiếng mưa;
có thời tôi từng thấy nó êm dịu.
Kal làm tôi thanh thản, cả chị Cee hẳn cũng thấy được. Mỗi lần chúng tôi
đi chơi, uống nước hoặc ăn tối với bạn bè, sẽ có những lúc tôi ngắm anh cử
động cánh tay, kể chuyện này kia, và cảm thấy bình lặng như thế. Tôi nhớ
cảm giác ấy.
Tôi xoãi chân ra và nghĩ về cái ba-lô của mình. Tôi định báo thất lạc hành
lý, nhưng người ta đang xếp hàng dài ở cái quầy nọ. Tôi ghét xếp hàng. Và
dù sao cũng không kịp thời gian. Tôi không biết họ có bao giờ tìm giúp tôi,
hoặc cái ba-lô của tôi cứ nằm dí trong một phòng nào đó. Họ sẽ làm gì với
nó? Mở nó ra? Lấy đồ cho từ thiện? Xem thử họ có thích thứ gì trong đó
không, rồi trút phần còn lại vào thùng rác? Tôi nghĩ một cái túi có thể cứ thế
mà lạc trong một hệ thống. Mặc dù nó sẽ phải ở đâu đó. Thậm chí khi bạn
không biết vị trí một thứ gì, nó vẫn đang tồn tại ở đâu đó.
Tôi đã quên mất cái quai xách cùng màu xanh với thân ba-lô hay là màu
đen. Tôi nhăn mặt cố nhớ. Tôi tự nhủ nào có quan trọng gì, nhưng nó cứ
phiền tôi.
Dưới lầu, cửa trước đóng sầm lại. Là chị Cee. Chị sống ở Berkhamsted.
Có chồng. Ba con. Làm bán thời gian bên nhân sự cho một công ty thiết kế.
Họ đã cho chị nghỉ phép. Nghỉ vì hoàn cảnh đặc biệt, và bố còn chưa...