Tôi quyết định tự nguyện xuống lầu. Tôi không muốn chị hành quân lên
đây.
Bếp sực mùi bánh nướng. Có mười hai cái bánh xốp nướng màu nâu trên
khay làm nguội kế bên bồn rửa. Chị Cee đang ngồi cạnh cái bàn gỗ thông
nặng nề, tháo laptop ra khỏi vỏ. Chị Tilly đang phí thời gian loay hoay với
cái bình pha cà phê.
“Làm bằng vỏ cám và mật ong đấy,” chị Tilly gượng cười. “Mua ở cửa
hàng Thực phẩm lành mạnh. Em uống cà phê chứ?”
Tôi gật đầu, và ngồi đối diện Cee, chị liếc tôi và rồi bắt đầu tháo dây
nguồn laptop. Chị ấy là kiểu người luôn cẩn thận cuộn dây nguồn quanh cái
adapter mỗi lần dùng máy xong.
“Cee muốn lập một kế hoạch,” chị Tilly nói.
Cee mở máy vi tính, nó kêu vo vo. “Giờ có em, bọn mình chia việc ra
nhé.” Chị ấy đang mặc quần jean, sơmi trắng nhét vào cạp. Mặt chị trông
rúm lại.
Tôi xát tay vào hàm, dán mắt vào một vết trầy mảnh trên mặt bàn – nó dài
cỡ ngón tay giữa của tôi. Tôi tự hỏi ai làm ra cái vết đó.
“Chị có tìm hiểu chút đỉnh,” Cee nói. “Chị nghĩ tụi mình nên nói chuyện
với bác sĩ về miệng của bố. Nó khô kinh khủng.”
“Không phải bố dùng thứ thuốc màu hồng bằng cái que à?” tôi nói.
Cee chúm môi lại. “Chị thấy mình phải xem xét cách khác. Rồi chị có đọc
về thuốc thấm qua da giảm đau kéo dài.”
Tôi có thể bảo chị giải thích. Nhưng thay vì vậy, tôi lại nhìn xuyên qua
chị vào cái tủ lạnh to lớn, trắng toát, xấu xí đang đứng liếc đểu trong góc
bếp. Tôi nhớ lúc bố mua nó về, không đứa nào dám hỏi bố sẽ làm gì với
chừng ấy không gian làm lạnh.
“Alice à?” Tôi hồi lại. Chị Cee trừng mắt nhìn tôi. Tôi nhoẻn cười. “Cái
chuông,” chị nói, và theo giọng chị thì tôi biết chị đang lặp lại, “ở ngay đây.”
Chị chỉ vào một trong những bộ nhận tín hiệu chuông cửa nằm trên bàn
trông như một loại thiết bị kích hoả. “Bố có nút nhấn chuông ngay bên