tri thức bằng thần giao cách cảm của bà đồng cốt sẽ giản đơn hơn là
giả thuyết về sự thông giao đến từ một người chết.
Và như thế xem ra không có sự hiển nhiên nào quan sát được có thể
chống cự lại thuyết nhị nguyên, và như thế nó không phải một giả
thuyết khoa học nhưng là một lý thuyết siêu hình. Nhưng điều ấy cũng
đúng với thuyết duy vật − bởi mọi hiển nhiên có thể quan sát được hẳn
có thể giải thích được bên trong khung sơ đồ duy vật, và như thế
không thể kể là chống lại nó. Nhưng chủ nghĩa duy vật có thể được coi
là quan điểm giản đơn hơn. Ít nữa là trong nghĩa nó giả định ít thực thể
hơn, và nó khuyến khích những chương trình nghiên cứu khoa học
(những chương trình này lại càng tiến bộ nhảy vọt) trong sự tìm kiếm
một cơ sở vật chất cho mọi thể trạng tinh thần trong bộ não và hệ
thống thần kinh trung tâm.
Thí dụ về lý thuyết nhị nguyên và chủ nghĩa duy vật mạnh mẽ nói
lên sự không thích đáng về những cố gắng của các triết gia trước đây
tìm cách bác bỏ những phát ngôn siêu hình, xem đó là vô nghĩa.
Hume thế kỷ XVIII, Comte thế kỷ XIX, Schlick và Ayer thế kỷ XX
(những kẻ được gọi là duy thực nghiệm luận lý) tất cả đều biện luận,
với những cấp độ tinh xảo (sophistication) khác nhau, rằng những phát
ngôn không-phân tích cũng không-thực nghiệm đều là vô nghĩa. (Họ
đưa ra những giải trình của họ về những phê phán về giá trị thật ra
không phải như những phát ngôn, nhưng như là những động cơ thúc
đẩy hành động, một loại mệnh lệnh trá hình).
Nhưng bây giờ thì hầu như có sự đồng ý tổng quan rằng, cách giải
đáp những vấn đề triết học lớn như lâu nay thì quả là quá hẹp hòi −
những cách giải đáp bằng nhị nguyên hay duy vật, tất định hay tự do,
sự hiện hữu của Thượng đế, sự tiến bộ trong lịch sử, v.v... Những
khẳng định đó “không phải là vô nghĩa”, như “The mome raths
outgrabe” (Lewis Carroll; [trong bài thơ vô nghĩa nổi tiếng của L.
Carroll với đề Jabberwocky, trong tác phẩm Alice sau tấm kính
(1871), nhưng lại không vô nghĩa, bởi tác giả dụng ý mô tả sự vật nhìn