của ông được ông gọi là “thuyết sinh mầm” [“pangenesis”, nguyên tự
Hy Lạp: pan là tất cả, toàn thể; genesis là phát sinh, mầm sinh].
Chiếu theo học thuyết này, bên trong các cơ quan của mỗi cây hay
thú vật đều có những phân tử nhỏ gọi là những “sinh mầm”
(“gemmules”); chúng phát triển trong suốt cuộc sống của cơ thể và gói
gọn hay tiêu biểu cho bản chất của các cơ quan. Thí dụ, một bắp thịt
mạnh có thể sản xuất những sinh mầm mạnh, một bộ não tinh thông có
thể sinh sản những phân tử tinh tuệ tương ứng. Giả sử là những sinh
mầm này lưu chuyển trong cơ thể và tập hợp lại trong các cơ quan tái
sinh sản, từ đó chúng được di truyền qua cho các hậu duệ. Điều đó
cung cấp một cơ chế cho việc di truyền những đặc tính đã được đắc
thủ.
Điều đó không phải là một ước đoán tồi tệ cho thời bấy giờ, nhưng
không bao lâu sau khi Darwin qua đời, lý thuyết đó tỏ ra sai lầm. Ở
đây có một bài học hữu ích: rằng kể cả những nhà khoa học xuất sắc
cũng có thể sai lầm. (Thí dụ, Einstein không bao giờ chấp nhận cơ học
lượng tử, quantum mechanics). Sai lầm lại càng dễ xảy ra, khi một nhà
khoa học phiêu lưu đi ra ngoài lĩnh vực chuyên môn của mình. (Thí
dụ, Newton lầy lội trong thuật giả kim, alchemy). Bằng chứng được
thẩm nghiệm công khai là thử nghiệm tối hậu cho các học thuyết khoa
học. Chúng ta cần nói thêm liền vào đây rằng, sự sai lầm của Darwin
về lý thuyết sinh mầm không phải là điều bác bỏ học thuyết chính của
ông về sự tiến hóa các chủng loại bởi sự Chọn lọc tự nhiên, học thuyết
này không tùy thuộc vào quan điểm cá biệt về các cơ chế của sự khác
nhau và của di truyền.
Những năm 1880, nhà sinh vật học người Đức August Weismann
biện luận rằng, “mầm nguyên sinh” (germ plasm) của một cơ thể −
những thành phần của một hệ thống tái sinh sản chuyên chở những tín
hiệu di truyền, ví dụ như trứng hay tinh dịch − đều độc lập đối với các
cơ quan khác, ngược lại với ý tưởng của Darwin về các sinh mầm di
chuyển. Như vậy, mặc dầu có gì xảy ra cho một sinh vật trong cuộc