ngăn ngừa nó kêu nại đến những khái niệm tâm thần khả nghi như bản
năng, chủ ý, hay ý thức trong sự giải thích các thái độ hành xử.
Watson cũng công bố một niềm tin ngây thơ vào năng lực của các ảnh
hưởng từ môi trường trên những khác biệt cá nhân, như khi ông quá
bạo gan tuyên bố rằng, một em bé mạnh khỏe có thể tập dượt hay
được “điều kiện hóa” để trở nên một lực sĩ ngoại hạng, một nhà vật lý
học, một thủ lĩnh công nghệ, hay một tên trộm cướp. (Có lẽ không
phải là một bất ngờ khi ông kết thúc trong công nghệ quảng cáo!).
Chương trình “hành xử” được tiếp tục đi đến Harvard bởi B.F.
Skinner (1904 − 1990), một trong những nhà tâm lý học thực nghiệm
có ảnh hưởng nhất trong thế hệ của ông. Skinner thích nêu ra mối
tương quan giữa “Lý thuyết điều kiện hóa việc hành xử” của ông với
“Học thuyết Chọn lọc tự nhiên” của Darwin, nói rằng môi trường “tạo
hình” hay “chọn lọc” cách hành xử, “tưởng thưởng” hay “tăng cường”
một số hành xử làm cho chúng có khuynh hướng lặp đi lặp lại.
Skinner hy vọng tìm ra được những “quy luật của sự hành xử” và
những “sơ đồ của sự tăng cường” được duy trì xuyên suốt tất cả hay
nhiều chủng loại khác nhau. Để đạt được mục đích đó, ông đã thực
hiện nhiều cuộc thí nghiệm công phu cách riêng trên chuột và bồ câu,
và ông đã tìm cách − rất đáng tranh cãi − suy diễn những khám phá
của ông lên trên con người trong những tập sách phổ thông như Khoa
học và Hành xử của con người (Science and Human Behavior) năm
1953.
Skinner có khuynh hướng khẳng định rằng, cách hành xử của thú
vật và của con nguời có thể giải thích được thông qua khái niệm
những nguyên nhân môi sinh. Ông không thể chối cãi những khác biệt
giữa các chủng loại, nhưng ông khẳng định rằng không có những khác
biệt bẩm sinh quan trọng giữa các cá thể. Nhưng, sự kiện các trẻ em
sinh đôi được sinh trưởng tách biệt nhau, cuối cùng vẫn giống nhau
trong nhân cách và khả năng tâm thần là một thí dụ điển hình rõ ràng
cho những khác biệt cá thể do di truyền. Cách hành xử của con người