HỌC THUYẾT TIẾN HÓA − GIAI ĐOẠN III (1951 − HIỆN
TẠI):
TRỞ LẠI VỚI BẢN TÍNH CON NGƯỜI
Di tố và Tư tố
(Genes and Memes)
Sau sự “Tổng hợp hiện đại” về Học thuyết Tiến hóa vào những
năm 1930 và 1940, một sự hiểu biết về sinh vật được đào sâu thêm và
đã được hoàn thành nhờ vào một thế hệ mới các nhà tư tưởng tiền
phong trong những năm 1960 và 1970. George Williams, Robert
Trivers, William Hamilton và John Maynard Smith đã cung cấp
những thức nhận dựa trên cơ sở toán học mới về các vấn đề thích ứng,
chọn lọc gia tộc, vị tha hỗ tương, và vai trò thế giá của lý thuyết trò
chơi để phát triển dân chúng.
Với những sự thể đó, người ta đã có thể tái diễn tả những thức nhận
cơ bản của Darwin thông qua khái niệm “di tố” (Genes), như
Richard Dawkins đã làm trong tác phẩm nổi tiếng của ông Di tố tự kỷ
(The Selfish Gene), năm 1976. Nhan đề này là một ẩn dụ được lựa
chọn một cách tài tình, mời gọi ta lấy cho mình “một cái nhìn dưới
quan điểm Di tố” (“a genes’-eye-view”) về Học thuyết Tiến hóa. Các
triết gia phát hiện ở đây một sai lầm về phạm trù, bởi vì di tố theo
nghĩa đen của nó không thể là tự kỷ (selfish), chỉ có toàn thể chúng
dân mới có thể được mô tả như vậy. Nhưng tâm điểm vấn đề của
Dawkins là nhìn xem sự tiến hóa sinh vật không phải chính yếu như là
sự tuần tự thay đổi chủng loại nhờ vào sự cạnh tranh giữa các cá thể,
mà là sự cạnh tranh giữa các di tố với nhau để giành được cho mình
một chỗ đứng trong thế hệ sắp tới. Thú vật sinh ra rồi chết đi, nhưng di
tố lại được di truyền xuyên suốt các thế hệ: So sánh với các cơ thể cá
biệt, di tố là tương đối bất diệt (chúng có thể bị mất khi một chủng loại
bị tiêu diệt).
Trong chương cuối nặng phần suy luận của tập sách, Dawkins gợi ý
nói rằng, văn hóa của con người có thể được nhìn xem như là một