Dân thường và phụ nữ: Nhiều người, quả thật, xem ra như bị loại
ra ngoài công trình Khổng giáo. Người dân bình thường được xem
như là một đám đông vô định hình và nói chung bất cập, đó cũng là
một vấn đề nữa theo quan điểm của Cách mạng Trung Hoa. Phụ nữ
cách riêng xem như không thuộc hệ thống giáo dục của Khổng giáo.
Quan điểm về sự hoàn thiện con người nhất định chỉ thuộc về nam
giới, và trong toàn bộ công trình để lại, ông hầu như không nói gì về
khả năng của nữ giới trong việc tự giáo hóa. Khi Khổng Tử có nói đến
phụ nữ, thì cũng nói đến một cách không mấy trang nhã, hàm ý họ
thông thường là những kẻ thiếu luật pháp và kháng cự quyền bính
chính đáng. Mặc dầu con đường đạo hạnh hoàn thiện của Khổng giáo
được chủ trương là bao gồm cả hai giới tính, nhưng Luận Ngữ cũng đã
gây ra một câu hỏi nơi độc giả, những kẻ tin vào sự bình đẳng của các
giới tính.
Lão giáo và Trang Tử: Sau cùng, tính thực tiễn của Khổng giáo đã
từng được phê phán bởi các triết gia Trung Hoa khác, thí dụ như các
triết gia Lão giáo mang tính siêu hình hơn. Triết gia Trang Tử (370 −
298 TCN) phê bình các Khổng nhân đã giản lược thực tại vào chỉ một
điều là sự việc xã hội con người. Trang Tử đã đảo ngược phẩm định
của Tuân Tử, bằng cách nay đặt Tự nhiên trên Văn hóa. Như là một
nhà huyền nhiệm của Tự nhiên, ý thức được sự bao la của sự sống
trong mọi hình thức của nó, Trang Tử tin rằng các Khổng nhân chỉ
chiếm được một thế giới nhỏ quá bi đát. Ông cũng xác định các Khổng
nhân như là những người quá quan tâm với những vấn đề thực dụng,
và đã phản ứng đối nghịch lại mối ưu tư này bằng sự tán dương điều
“ích lợi của sự vô lợi”. Nhưng vượt trên dòng thời gian, Khổng giáo
đã chứng minh được là một hệ thống có nhiều hấp dẫn hơn cho các
nhà tư tưởng Trung Hoa trong việc thiết chế một xã hội con người đức
hạnh hơn là tư tưởng siêu hình trừu tượng của Lão giáo.
Tân-Khổng giáo: Mặc dầu Khổng giáo vào đầu thế kỷ XX đã mất
uy tín bởi sự sụp đổ của hệ thống đế chế và trở nên mục tiêu đánh phá