Truyền thống tuân phục cấp trên: Ngoài tính cách là một hệ
thống được bắt rễ trong sự đoan trang phổ thông của “Đạo luật vàng”,
Khổng giáo là một truyền thống giảng dạy sự tuân phục các cấp trên.
Những cấp trên thích đáng là người cha trong gia đình, người cai quản
trong nước, và các học giả Khổng giáo, kẻ chuyển tải Đạo của hiền
nhân – ta thường gọi là quân, sư, phụ. Nếu kẻ làm đầu trong gia đình
và trong nước là những người công chính, thì mọi sự sẽ tốt đẹp.
Nhưng nếu những người đó lại là những người bất chính, thì toàn cả
hệ thống sẽ bị sụp đổ. Chính Khổng Tử cũng đã ý thức vấn đề này nên
đã nhấn mạnh tính cách đạo đức của người lãnh đạo. Dẫu vậy, hệ
thống của ông đã dành cho một ít người một quyền lực quá lớn và đã
đặt số đông trong một vị thế lệ thuộc.
Một truyền thống bảo thủ: Khổng giáo cũng là một truyền thống
đúng là bảo thủ, tìm sự dẫn dắt ở trong quá khứ. Điều đó có thể được
xem là một thái độ hạn chế sự sáng tạo của cá nhân trong hiện tại.
Điều ấy cũng đã làm cho Khổng giáo trở nên đối tượng phản tác đầu
tiên trong cuộc Cách mạng văn hóa Trung Quốc vào những thập niên
60 và đầu 70 thế kỷ XX. Hơn nữa, nó là một hệ thống lệ thuộc vào
một lớp người ưu tú văn học, các học giả Khổng giáo. Chúng ta có thể
đặt câu hỏi: Các học giả có tiếp cận được quá khứ một cách không bị
chi phối bởi các khuynh hướng ý thức hệ của chính mình? Khổng
giáo, như đã được trình bày, rộng rãi đặt nền tảng trên một nhãn quan
đạo đức siêu việt. Điều ấy cho phép nghĩ rằng, một nhãn quan như thế
đơn giản là một cách để một nhóm người nào đó lấy quan điểm đạo
đức riêng biệt của mình làm đặc quyền. Chúng ta có thể tiếp tục đặt
câu hỏi: Nhãn quan của quá khứ là của ai và nhãn quan đạo đức của
Khổng giáo được đặt trên cơ sở của những người nào? Phần lớn các sử
gia ngày nay tranh luận rằng, không một nhãn quan nào của quá khứ là
hoàn toàn trung tính hay phi chính trị. Mọi biểu hiện lịch sử đều hàm
chứa các vấn đề quyền lực.