tức A lại da thức hay tàng thức, để chọn ra một quyết định thích
hợp. Tuy nhiên mọi dữ kiện, cảm giác được chuyển vào đây đều ít
nhiều bị thay đổi hay bóp méo bởi sự tương tác giữa giác quan thứ
bảy và giác quan thứ tám. Đó là lý do tại sao chúng ta dễ có thành
kiến hay sự phán xét mang tính áp đặt, chủ quan, vì mọi sự việc mà
ta tiếp nhận đã không còn đúng hay chính xác như bản chất vốn có.
***
Trong lúc bàn luận với Thomas về đề tài này, tôi đã so sánh sự hoạt
động của tâm thức với máy điện toán. Các giác quan (căn thức)
giống như các cảm biến (sensor). Thức thứ sáu (ý thức) như bộ tiền
xử lý (pre-processor) với chức năng ghi nhận, sắp đặt, phân loại dữ
kiện của các giác quan. Thức thứ bảy (Mạt na) như trung tâm xử lý
(CPU) quyết định mọi việc. Thức thứ tám (A lại da) như cơ sở dữ liệu
(database). Dĩ nhiên, tôi so sánh như thế chỉ để cung cấp một khái
niệm đại cương cho người đọc dễ hiểu. Thực tế, sự vận hành của
tâm thức phức tạp hơn như vậy rất nhiều.
Timotheus nói thêm:
- Đây là một giải thích vô cùng lý thú. Khi suy ngẫm kỹ, ta sẽ thấy
hầu hết mọi quyết định của con người thường mang tính chủ quan,
được xây dựng dựa trên những gì có lợi cho người đó nhất. Tại sao
như vậy? Trong khi sáu giác quan kia ghi nhận mọi sự và chuyển
cho giác quan thứ bảy xử lý, giác quan này đã tự động "chủ quan
hóa" tất cả và cho rằng mọi việc đều xảy ra quanh "nó", vì nó làm
chủ, "nó" có quyền quyết định mọi cảm giác (sensory), trải nghiệm
(experience), niềm tin (belief), kiến thức (knowledge) và cảm xúc
(emotion). Do đó, tôi tin rằng giác quan thứ bảy của linh hồn chính là
cái "bản ngã" mà các vị thầy Hy Lạp xưa nay vẫn tìm kiếm.
Giọng Timotheus trở nên hào hứng hơn:
- Câu hỏi "Ta là ai?" hiện đã có lời giải, tôi tin là vậy. "Ta" chẳng phải
chỉ là thân xác mà còn có cả phần linh hồn, trong phần linh hồn đó