bị lệnh doãn nước Sở ăn hối lộ bị giam giữ đã ba năm mới được tha về,
cũng muốn liên hợp với Ngô, Thái tấn công nước Sở để báo oán trả thù.
Hạp Lư cho rằng thời cơ đánh Sở đã chín muồi, liền hỏi Ngũ Tử Tư và Tôn
Vũ có cách nhìn gì khác không. Hạp Lư nói:
- Trước đây, các ông cho rằng không thể đánh Dĩnh được, phải chăng là
bây giờ đã có thể đánh được?
Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ nói:
- Lòng dạ tham lam của Sở quá nặng nề, hai nước Đường, Thái ở bên
cạnh nước Sở đều oán hận. Nếu đại vương nhất định phải cất quân đi đánh
Sở thì trước hết cần phải giành được sự ủng hộ và giúp đỡ của hai nước
Đường, Thái mới được.
Kiến nghị này vừa hay phù hợp với cách nghĩ của Hạp Lư. Hạp Lư cũng
nhìn trúng nước cờ này. Lúc đó, Thái, Đường đã biểu lộ rõ yêu cầu được
liên hợp với Ngô để đánh Sở, mà Thái, Đường ở phía Bắc nước Sở, sự
phòng ngự của nước Sở rất mỏng và yếu. Nước Ngô cũng đã đánh chiếm
được các vùng như Châu Lai (nay là Phượng Đài, An Huy), Cư Sào (nay là
huyện Sào, An Huy), Chung Ly (nay là Lâm Hoài Quan Phượng Dương An
Huy) v.v... Do vậy nước Ngô đã xuất quân vòng qua Đại Biệt Sơn, men
theo sông Hoài tiến vào nước Thái, từ phía Bắc, phía Đông nước Thái phát
khởi cuộc đột kích bất ngờ vào nước Sở trước. So với cuộc tấn công chính
diện vào khu vực Dự Chương (nay là vùng Hoài Nam, Giang Bắc, tỉnh An
Huy) của nước Sở có quân đội phòng ngự tương đối mạnh, hoặc men theo
Trường Giang (lúc đó hai bên bờ Trường Giang chưa hoàn toàn được khai
phát, giao thông rất bất tiện), đánh vào nước Sở từ phía Tây, sẽ có lợi hơn
rất nhiều. Vua tôi nước Ngô đã thống nhất cách nhìn đó. Mùa đông năm ấy,
Hạp Lư đảm nhiệm chức thống soái, cử Ngũ Tử Tư, Tôn Vũ làm tướng,
dẫn quân men theo phía Tây sông Hoài, tấn công vào nước Sở. Sau khi qua
Chu Lai, bỏ lại thuyền ở khúc sông chảy vòng (theo suy đoán thì đó phải là
vùng Đông Bắc Hoàng Xuyên, tỉnh Hà Nam), quân đội trèo lên bờ, được sự
hiệp trợ và dẫn đường của nước Thái và nước Đường, họ đã nhanh chóng