"hữu ngôn vô ngôn". Cái điều mà thánh nhân đắc Đạo nói, thường chỉ là
dùng đến lời nói của giới nhị nguyên, nên chỉ có giá trị "nửa chừng" mà
thôi; trong khi Chân lý gồm cả hai mặt (trái và mặt, âm và dương). Cho
nên dù là có nói mà dường như chưa hề có nói, vì không thể nói ra được
cái Chân lý Toàn diện với những danh từ hạn định của Nhị Nguyên.
[lxxviii] Trần cấu chi ngoại: trần, là bụi; cấu, là bụi nhỏ. ám chỉ sự vô
thường của sự vật trên đời: rốt cuộc thảy đều trở thành tro bụi. "trần cấu
chi ngoại" là ngoài sự tiêu vong và bất thường của sự vật, tức ám chỉ cái lẽ
thường tồn nơi ta là Đạo.
[lxxix] Phu tử: ám chỉ Khổng tử.
[lxxx] Mạnh lãng: âm là mạn lãng, nghĩa là vu vơ không đúng với thực tế.
[lxxxi] Hành: đọc là hạnh, tức là tư cách.
[lxxxii] Khưu: tên của Khổng tử.
Võng: nghĩa là bậy bạ, bướng.
[lxxxiii] Thời dạ: ám chỉ con gà (thường gọi là tư dạ).
[lxxxiv] Hề: làm thế nào, làm sao.
[lxxxv] Bàng: dựa vào.
[lxxxvi] Thần hợp: không phân biệt nhau.
[lxxxvii] trí: phó mặc cho
Hoạt: lộn xộn, hỗn loạn.
Hôn: không phân biệt, tối tăm, ngu độn, sâu kín.
[lxxxviii] Di lệ tương tôn: lệ, là chỉ về sự thấp hèn; tôn, là cao quý. í muốn
nói: quý tiện cùng xem như nhau.
[lxxxix] dịch dịch: bôn ba, chạy theo hấp tấp. Câu "chúng nhân dịch dịch"
là muốn nói người đến đua theo thị phi, ồ ạt chạy theo thị phi.
[xc] Ngu xuân: không nghiên cứu, không chia phân sự vật làm hai. Không
nhận thấy sự khác nhau giữa các mâu thuẫn.
[xci] Tham vạn tuế nhi nhất thành thuần: chen vào cuộc thiên biến vạn hóa
của Trời Đất, mà luôn luôn ôm giữ được cái Đạo một bất biến và thuần
nhất.
[xcii] Uẩn: tích tụ lại, liên hợp lại. chỉ sự không thể chia lìa giữa vạn vật.
[xciii] Sô hoạn: sô là thịt các con vật ăn cỏ; hoạn là htịt các con vật nhà: