Tác-van lại phải thường xuyên giúp đỡ mẹ đang sống với bà em gái Lu-da ỏ
làng Tơ-ra-vec. Trước chiến tranh bà này ở Pa-ri. Chồng là Ăng-đơ-rê Rơ-
na, kỹ sư hàng không. Nhưng năm 1939, Ăng-đơ-rê bị động viên vào quân
đội, công tác trong không quân, và chắc đã chết rồi, vì suốt thời gian từ đó
đến nay Lu-da chưa hề nhận được lá thư nào của chồng. Ít lâu sau bọn Đức
tịch thu toàn bộ gia sản của Ăng-đơ-rê, nên Lu- da đành phải rời bỏ Pa-ri để
lần về ở vối mẹ trong một làng quê cách Xanh Rê-mi 30 cây số.
Tất nhiên, sống quây quần có chị có em thì vẫn ấm cúng hơn. Bà em sẽ
đỡ đần công việc trong tiệm ăn. Nhưng bà Tác- van chẳng dám làm như vậy.
Không phải vì bà ghét bỏ gì em gái, mà là vì phải đề phòng. Nếu bọn Giét-
ta-pô biết rằng vợ Ăng-đơ-rê ở trong nhà bà chủ tiệm ăn thì chúng sẽ ghi vào
sổ đen ngay. Chúng sẽ cấm sĩ quan Đức vào tiệm ăn và như thế thì chi đi
đến phá sản hoàn toàn. Dù sao chăng nữa phần lớn tiền lời đều trông cậy vào
những ông khách thường lui tới này. Không, không thể nghĩ đến việc đưa
em gái về ở trong nhà được. Thậm chí bà Tác-van còn phải giấu giếm cả
chuyện thư từ với Lu-da, nhất là sau khi Giăng trốn theo du kích.
Phải đứa con trai độc nhất của bà đã phải chạy theo du kích. Từ ngày
xảy ra việc này, chưa phút nào bà Tác-van được yên tâm. May mà bọn Giét-
ta-pô chưa dò là được chuyện đó. Chúng chỉ biết rằng Giăng bị mất tích
ngoài mặt trận, hoặc là chết, hoặc là bị bắt làm tù binh. Thế ngộ chúng dò
biết được thì sao? Vì đã một bận nó bị giữ lại trong núi cơ mà. Phúc bảy
mươi đời, nó lại gặp được ông Nam tước ấy. Chắc hẳn lời cầu nguyện hàng
ngày của người mẹ già đã xui khiến Nam tước buông tha nó.
Nếu không thì vì cớ gì Nam tước lại làm như thế? Hay có lẽ ông ta đã
nhận ra Giăng là anh ruột Mô-níc? Không, không thể thế được. Mà thằng
Giăng thì vẫn là thằng bé vô tư ngờ nghệch như xưa. Mặc dầu nó nhiều tuổi
hơn con Mô-níc thực đấy, nhưng đối xử còn kém hơn con bé này nhiều.
Bà chỉ có thể trông cậy vào con gái thôi. Nàng không đến nỗi như