tìm được một vật gì có giá trị, nhưng chỉ có một đống sách rải rác, hai chiếc
ghế gỗ, một cái bàn cũng bằng gỗ - một bức tranh xé nát và giẫm bừa lên,
không có một vật gì có giá.
Anh cúi xuống lượm một mảnh vải xám và thấy một nhóm người ở trong
phòng tận cùng. Vương chưa hề gặp những người như thế. Một người đàn
ông, một người đàn bà, hai đứa nhỏ. Họ ôm chặt lấy nhau. Áo quần họ dơ
bẩn, rách rưới, chỉ có phía dưới thân thể là được che lại. Người đàn bà
khoác lên vai một mảnh vải. Người đàn ông có một dấu trầy trên trán, một
dòng máu đỏ chảy dài một bên gương mặt trắng. Vương chưa hề thấy máu
đỏ như vậy.
Anh nhìn họ thật kỹ và họ cũng nhìn anh, không hề sợ hãi. Hai đứa bé
cũng không kêu lên một tiếng nào.
Vương không chịu nổi những cái nhìn đó. Anh ngoảnh mặt đi rồi lại
nhìn lại lần nữa.
Người đàn ông nói mấy tiếng bằng một ngôn ngữ kỳ lạ. Người đàn bà
cười chua chát và họ tiếp tục nhìn Vương, với đôi mắt sáng ngời, với vẻ tự
tin.
Vương nói to lên: “Mấy người này không có vẻ gì sợ hãi”. Rồi anh tự
thấy thẹn vì tiếng của mình vang lên to quá, vội chạy ngay ra cổng.
Đường phố vắng tanh, nhưng xa xa hãy còn nghe văng vẳng tiếng la hét
của đám đông.
Sau một phút do dự, Vương quay trở lại, đi nhanh về nhà.
Những người lính chết hãy còn nằm trên đường. Ruồi nhặng bắt đầu bu
các xác đó dưới bóng mặt trời nắng như nung.
Nhiều người dân làng hấp tấp ra tỉnh. Họ hỏi Vương, nhưng anh chỉ lắc
đầu. Anh mệt và chán hết tất cả. Trên đời không còn thứ gì có thể làm anh
ham muốn.
Khi về tới nhà, anh đặt gói lên bàn, nói vội vã:
— Đây là phần của tôi trong cuộc cách mạng.
Rồi anh đi vào phòng ở phía sau, leo lên giường nằm. Anh chỉ nhớ một
kỷ niệm rõ ràng duy nhứt. Đó là cái nhìn ngạc nhiên và trong sáng của
những người ngoại quốc. Vương lẩm bẩm: “Họ không có vẻ sợ hãi” và sau