Thanh Tòng chưng hửng, liếc mắt ngó mẹ rồi quỳ xuống ôm tay cha
và khóc và nói rằng: ''Cúi xin cha thứ tội cho con. Con thưa dối với cha, là
vì con sợ cha buồn, chớ không phải con dám cố ý bất nghĩa với cha!“
Quan Tướng quốc lắc đầu thở ra rồi ông nhìn con trân trân, song
không nói tiếng chi hết. Thanh Tòng lau nước mắt mà nói rằng: ''Bệ hạ
không xét giùm cái tình của con, nên làm tội con, thì con vưng chịu, con
đâu dám phiền trách. Mà mất quyền tước cũng không đủ làm cho con buồn.
Con lo có một điều, là lo cha đương có bịnh mà không được vui lòng đó mà
thôi''.
Quan Tướng quốc khoát tay mà nói rằng: ''Mi là một đứa con bất hiếu,
mi còn biết cha mi là ai mà mi nói lo''. Thanh Tòng bị cha quở thì chàng
khóc ròng. Ông nín một hồi rồi ông nói tiếp rằng: ''Mi là một đứa nghịch
thần, mi còn kể vua là ai mà mi xưng hô Bệ hạ... Thiệt rõ ràng mi là thiên
hạ đại tội nhơn, mi có biết chăng?''
Thanh Tòng cứ khóc không dám đối đáp với cha. Ông nằm thở dốc,
coi bộ ông mệt lắm. Cách một hồi ông gượng mà nói rằng: "Mi muốn ta
chết cho mau, nên mi mới cãi lời ta. Ta biết ta phải chết bây giờ đây. Nhưng
mà dầu còn một tấc hơi, ta tưởng cũng nên dùng mà coi cái tội của mi cho
mi biết. Mi làm con mà không chịu vưng ý cha, thì mi phải cái tội bất hiếu.
Mà cái tội bất hiếu còn khả dung, chớ cái tội bất trung không thế dung cho
mi được. Mi là đứa có học, sao mi không thức thời vụ? Từ ngày ta ngọa
bịnh đến nay, ta lóng nghe trong triều tiểu nhơn lẫy lừng, quân tử ly tán.
Những đứng trung thần còn ai đâu? Bên văn thì ông Ðỗ Nhuận, bên võ thì
ông Lê Lộng đã mất lộc rồi. Còn ông Lê Ðình Ngạn với ông Lê Nhơn Hiếu
thì là bạc nhược, mà lại không có dõng lược chi hết, chẳng khác nào người
chết mà chưa chôn. Ta coi trong quân thần bây giờ chỉ còn có một mình
ông Lê Thọ Vực là lương đống của nước nhà, mà ông bị sàm thần châm
chích làm cho Bệ hạ không vui với ông, nên đã sai ông lên Lạng Sơn mà
lãnh chức Thủ ngự Kinh Lược Sứ. Thế thì trong triều bây giờ còn ai biết lo