chết. Cái Lụa từ từ dỡ từng thứ trên giường cho lên giá sách, rồi cuốn
chiếu, đến lật giát: Không thấy con chuột đâu. Lụa tức tốc đảo quanh cái
giường, thậm chí kéo hẳn nó ra khỏi chỗ giáp vách. Chúng tôi đưa mắt nhìn
nhau: Rõ ràng là nó chạy vào đây cơ mà. Gian phòng sáng choang không
nơi ẩn nấp. Cái Lụa rất tức tối, nó cầm cái gậy hết gõ vào chỗ nọ lại gõ vào
chỗ kia, vừa gõ vừa lẩm bẩm: Vô lý, vô lý. Bất chợt nó bảo tôi kiểm tra
đằng sau cái bảng bằng gỗ foóc. Tôi nghĩ cái bảng treo sát vào tường thế
kia làm sao nó chui vào được? Nhưng vẫn nghe theo cái Lụa, nâng đáy cái
bảng và ngó vào thì trời ơi: Ở cái mép trên ấy, con chuột nằm ngửa bám
chặt lên phía trên mép gỗ. Tôi thật không tài nào hiểu được bằng cách nào
mà nó hóa thân vào đằng sau cái bảng ấy được, còn nó thì đang nhìn thẳng
vào mắt tôi, hai con mắt tròn như hai hạt đậu đỏ, cái miệng nhọn cùng bộ
râu đang run rẩy. Ánh mắt của nó, kiểu nhìn ấy của nó thật tôi không tài
nào mà tả nổi, có cái gì đó như van xin, như đau đớn, căm giận mà tôi chả
biết nữa.
- Có không! - Tiếng Lụa vang lên như quát.
- Không có. - Tôi trả lời như một cái máy rồi như vô thức sập cái bảng
xuống như cũ - cái bảng treo sát thế này, gián còn không chui lọt nữa là
chuột. Thật hú vía, nếu Lụa mà biết được, chỉ cần nó đè mạnh cái bảng một
cái thì xương cốt con chuột sẽ bị gẫy rôm rốp.
Hậm hực một lúc rồi Lụa cũng giục chúng tôi đi ngủ. Trước khi tắt
điện nó còn càn quét một đợt nữa, mồm cứ lẩm bẩm: Vô lý, vô lý.
Có điều lúc Lụa tắt điện, tôi rón rén đi xuống cầu thang khe khẽ mở
cửa nhà kho. Xong việc tôi lại nhón nhén đi lên đến nỗi cái Thu cũng còn
không biết.
*