những trẻ bị bỏ rơi, và nó đi liền với các vấn đề khác về lâu dài. Đó là một
hành vi nổi bật của những đứa trẻ lớn lên trong một trại trẻ tập trung.
Bàng hoàng trước những điều kiện được chứng kiến, Nelson và nhóm
của ông đã thành lập chương trình Can thiệp sớm Bucharest. Họ đã đánh giá
136 trẻ em, từ sáu tháng đến ba tuổi, đã sống ở các cơ sở tập trung từ lúc
sinh ra. Đầu tiên, một điều dễ dàng nhận thấy là IQ của lũ trẻ chỉ trong
khoảng sáu đến bảy mươi, so với trung bình là một trăm ở những đứa trẻ
bình thường. Những đứa trẻ này có dấu hiệu của sự kém phát triển não bộ
và ngôn ngữ của chúng đã bị hạn chế. Khi Nelson sử dụng điện não đồ để
đo hoạt động điện não của trẻ, ông nhận thấy có sự giảm đáng kể hoạt động
thần kinh ở chúng.
Không có môi trường chăm sóc tinh thần và kích thích nhận thức, bộ não
con người không thể phát triển bình thường.
Một cách đáng khích lệ, nghiên cứu của Nelson cũng cho thấy một điều
quan trọng: não thường có thể phục hồi, ở mức độ khác nhau, một khi trẻ
được đưa đến môi trường an toàn và yêu thương. Với trẻ nhỏ hơn, điều này
sẽ dễ dàng hơn, sự phục hồi sẽ tốt hơn. Trẻ em được đưa ra khỏi trại nuôi
dưỡng trước hai tuổi nhìn chung hồi phục tốt. Sau hai tuổi, chúng cũng tạo
ra những cải thiện - nhưng tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ mà chúng sẽ có các
mức độ khác nhau của những vấn đề liên quan đến phát triển.
TRẠI TRẺ MỒ CÔI RUMANI
Năm 1966, nhằm tăng dân số và lực lượng lao động, Tổng thống Rumani
Nicolae Ceaușescu đã ban hành lệnh cấm ngừa và phá thai. Các bác sĩ phụ khoa
nhà nước được gọi là “cảnh sát kinh nguyệt” đã kiểm tra những phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ để đảm bảo rằng họ đã sinh đủ số con. Một loại “thuế độc thân”
được áp dụng đối với các gia đình có ít hơn năm đứa con. Chính sách này làm tỉ
lệ sinh tăng vọt.