đến việc không thực hiện các hợp đồng đã được toà liên
bang xử. − Hệ quả của việc này.
Sau khi thừa nhận cách thức ấn định quyền hạn liên bang, các nhà lập
pháp của Liên bang xác định những trường hợp chế tài mà Liên bang phải
thực hiện.
Người ta chấp nhận có những người khiếu kiện nhất định chỉ có thể bị xử
bởi các toà liên bang bất kể đối tượng vụ án là gì.
Sau đó người ta cho rằng có những vụ án nhất định chỉ có thể được quyết
định bởi cùng những toà án đó bất kể những người khiếu kiện đúng sai ra
sao.
Con người và cớ tố tụng như vậy trở thành hai căn cứ của quyền hạn liên
bang.
Các đại sứ là đại diện của các quốc gia bằng hữu của Liên bang. Những gì
được các đại sứ quan tâm cũng là mối quan tâm của toàn Liên bang. Khi một
vị đại sứ rơi vào một vụ án, thì vụ việc đó liên quan đến lợi ích của quốc gia.
Theo lẽ tự nhiên, chuyện đó do Toà Liên bang tuyên án.
Ngay Liên bang cũng có thể bị rơi vào vụ án: trong trường hợp này, thật
là điều trái với lí trí và cũng trái với tập tục quan hệ quốc gia nếu cần đến sự
phán xử của các toà án đại diện cho một chủ quyền khác với chủ quyền của
chính mình. Lúc này chỉ có toà Liên bang là có quyền tuyên án.
Khi hai cá nhân thuộc hai bang kiện cáo nhau, thì không thể đem xét xử
họ ở một trong hai toà án thuộc hai bang của họ mà không sợ có điều bất
tiện. Chắc chắn hơn thì nên chọn một toà án không thể gây ra điều dị nghị
của bất kì phe nào, và một cách thật tự nhiên thì cái toà án phải chọn để xét
xử chính là toà của liên bang.
Khi hai bên kiện cáo nhau không phải là hai con người mà là hai bang, thì
việc khu xử phải dựa theo cái lí bình đẳng, song ngoài ra còn có thêm cả cái
lí về chính trị nữa. Ở đây việc đúng sai của hai bên kiện cáo có tầm quan
trọng quốc gia trong mọi bản án. Một chút tranh chấp nhỏ nhặt giữa hai
bang cũng liên quan đến nền hoà bình của toàn thể Liên bang
.