cùng một giống người với ông chủ anh ta, và lắm khi anh ta còn cao hơn ông
chủ về đường học vấn và trí tuệ
. Hai bên cách xa nhau chỉ vì có hay
không có tự do. Khi có tự do, họ dễ dàng hoà nhập vào với nhau.
Vậy cho nên người cổ đại có một phương tiện khá đơn giản để được giải
thoát khỏi chế độ nô lệ và các hệ quả của nó. Phương tiện đó là sự giải
phóng nô lệ, và khi đem dùng phương tiện đó khắp nơi, thì họ thành công.
Không phải là vì, vào thời cổ đại, những dấu vết của chế độ sử dụng lao
động nô lệ không tồn tại được một thời gian sau khi chế độ nô lệ đã bị thủ
tiêu.
Có một định kiến tự nhiên khiến người ta khinh bỉ kẻ nào thấp hơn mình,
kể cả rất lâu sau khi kẻ đó thành người ngang hàng với ta. Tiếp theo sự bất
bình đẳng do tài sản hoặc luật pháp tạo ra bao giờ cũng là sự bất bình đẳng
tưởng tượng có gốc gác từ trong tập tục. Nhưng ở người cổ đại, cái tác động
phụ này của chế độ nô lệ có hạn định. Kẻ nô lệ được trả tự do nom lại khá
giống với những con người gốc gác tự do, đến mức là khó phân biệt được
đôi bên.
Điều khó khăn hơn với người cổ đại là việc sửa đổi luật pháp, còn với
người hiện đại là sự thay đổi tập tục, và với chúng ta, điều khó khăn thực sự
được bắt đầu ở đoạn kết thúc của người thời cổ.
Điều này có nguyên nhân ở chỗ, với người hiện đại, chế độ nô lệ − một sự
kiện khó nắm bắt và phi vật chất − lại được kết hợp một cách tai hoạ nhất
với sự phân biệt về chủng tộc − một sự kiện mang tính vật chất và diễn ra
thường xuyên. Hồi ức về chế độ nô lệ làm ô danh cho chủng tộc, và chủng
tộc kéo dài thêm cái hồi ức về chế độ nô lệ.
Không có một người châu Phi nào lại đã đặt chân lên Tân thế giới trong
tư thế con người tự do. Từ đó ta thấy rằng tất cả những người châu Phi nào
bây giờ ta còn bắt gặp ở Mĩ thì đều là nô lệ hoặc là nô lệ được trả tự do. Vì
thế mà, sự tồn tại của người da đen cũng là sự chuyển giao cho tất cả con
cháu cái dấu hiệu bề ngoài của nỗi ô nhục đó. Luật pháp có thể thủ tiêu sự