thần đó vào các luật lệ chính trị, vào các học thuyết tôn giáo, vào các lí
thuyết kinh tế xã hội, vào doanh nghiệp riêng; người Mĩ đem cái tinh thần
đó đi theo họ khắp nơi, vào tận giữa rừng cùng như vào trong lòng thành
phố. Chính cái tinh thần đó, khi áp dụng vào thương mại hàng hải, đã khiến
cho người Mĩ ngang dọc biển khơi nhanh hơn và rẻ hơn mọi thương gia trên
thế giới.
Chừng nào mà các thuỷ thủ Hoa Kì còn duy trì được những ưu thế trí tuệ
đó và cái tinh thần thực dụng có được từ cái trí tuệ đó, thì không những họ
sẽ tiếp tục cung ứng cho nhu cầu của những nhà sản xuất và người tiêu dùng
của đất nước mình, mà họ sẽ còn có xu thế càng ngày càng trở thành những
nhân tố của các quốc gia khác nữa, cũng như người Anh vậy
Điều này bắt đầu thể hiện cụ thể ngay trước mắt chúng ta. Ngay bây giờ
chúng ta đã thấy những nhà viễn dương Mĩ, trong vai trò những tác nhân
trung gian, thâm nhập vào nền thương mại của nhiều dân tộc châu Âu
nước Mĩ sẽ còn cho họ một tương lai to lớn hơn nữa.
Người Tây Ban Nha và người Bồ Đào Nha đều dựng lên ở Nam Mĩ nhiều
khẩn địa to lớn rồi từ đó đã trở thành những quốc gia rộng lớn. Nội chiến và
bạo quyền làm cho những xứ sở mênh mông đó thành hoang tàn. Cuộc
chuyển động dân cư dừng lại ở đó, và những con người ít ỏi sống ở đó bị
cuốn hút vào công việc tự phòng vệ, chật vật mãi không xong với việc làm
sao cho cuộc đời họ khấm khá lên.
Nhưng cuộc sống không thể cứ như vậy mãi cho được, châu Âu bị bỏ mặc
cho chính nó, đang tự lực chọc thủng những mảng u tối Trung Thế kỉ; Nam
Mĩ cũng theo đạo Ki Tô như chúng ta; Nam Mĩ cũng làm ăn và có luật lệ
như chúng ta; Nam Mĩ có đủ mọi mầm mống văn minh từng nở rộ trong
lòng các dân tộc châu Âu và con cháu của họ; Nam Mĩ còn hơn chúng ta là
có một tấm gương ở gần kề; nhưng tại sao họ vẫn cứ còn mông muội?
Hiển nhiên đây không chỉ là vấn dề thời gian; rồi sẽ tới một thời kì gần
hoặc xa khi người dân Nam Mĩ trở thành những dân tộc nở rộ và sáng láng.