thời giờ quý báu để tìm một bến cảng xả hơi hoặc trùng trình không chịu rời
bến và mỗi ngày ở lại như vậy đều tính bằng tiền.
Nhà viễn dương người Mĩ xuất bến ở Boston đi Trung Hoa mua chè. Ông
ta tới Quảng Châu, ở đó vài ngày và lập tức quay về. Trong vòng gần hai
năm ông ta đi quãng đường bằng chu vi trái đất và chỉ nhìn thấy đất liền duy
nhất một bận. Suốt hành trình dài tám tới mười tháng, ông ta uống nước
phèn và ăn thịt ướp. Ông ta không ngừng đấu tranh chống lại biển khơi,
chống lại bệnh tật, chống lại sự buồn chán. Nhưng khi về lại nhà, ông ta có
thể bán cân chè rẻ hơn một xu so với ông lái người Anh: đích thế là đã đạt
rồi.
Tôi khó có thể có cách diễn đạt ý mình rõ ràng hơn ngoài cách nói rằng
người Mĩ đem hẳn một thứ chủ nghĩa anh hùng vào cách tiến hành thương
mại của họ.
Với thương gia châu Âu thật rất khó khăn cùng ganh đua theo được
nghiệp đó như ông bạn thương gia Mĩ. Khi hành động như tôi vừa mô tả,
người Mĩ không chỉ theo một sự tính toán, chủ yếu là ông ta vâng theo bản
chất mình nữa.
Những người sinh sống trên đất Hoa Kì đều có những nhu cầu và những
ước vọng sinh ra từ một nền văn minh cao, và nó không bắt gặp quanh mình,
như ở Pháp, một xã hội tổ chức tinh vi để họ được thoả mãn trong xã hội ấy.
Vậy nên người Mĩ bị bắt buộc phải tạo ra cho mình các đối tượng khác nhau
do giáo dục và thói quen đã trở thành cần thiết. Ở Mĩ, đôi khi cùng một con
người, anh ta cày ruộng nhà mình, xây nhà mình ở, làm ra các công cụ cho
mình dùng, đóng giày mà đi và tự tay mình dệt vải thô may quần áo mình
mặc. Cung cách này làm hại cho sự hoàn thiện kĩ năng, nhưng lại vô cùng
hữu ích để phát triển trí khôn người thợ. Không có gì tốt hơn là cuộc đại
phân công lao động nhằm giúp con người thể hiện hết mình và tước bỏ khỏi
sản phẩm cả tới dấu vết tâm hồn mình. Ở một nước như nước Mĩ, nơi rất
hiếm những con người chuyên môn hoá, ta không thể đòi hỏi mỗi người đều
có thời gian dài học lấy cái tay nghề mình đeo đuổi. Người Mĩ nhờ vậy lại
thấy vô cùng dễ dàng thay đổi tình trạng tuỳ theo nhu cầu trước mắt, và họ