Cung cách của người Mĩ chỉ tìm thấy quy tắc phán xét ngay trong bản
thân mình tạo ra những thói quen khác nữa trong tư tưởng họ.
Do chỗ, thấy mình có thể không cần trợ giúp nào khác mà cũng giải quyết
được các khó khăn nho nhỏ trong cuộc sống thực tiễn, họ dễ dàng đi tới kết
luận rằng con người có thể lí giải được mọi thứ trong cuộc đời này, và trong
công việc đó không có điều gì là cao quá những giới hạn trí tuệ của con
người.
Vì vậy mà họ sẵn sàng khước từ đi vào những thứ gì họ không có khả
năng hiểu: điều đó khiến họ ít tin vào cái khác thường, và hầu như họ ghê
tởm tuyệt đối cái siêu nhiên.
Do chỗ, chỉ có chính họ làm chứng cho những điều gì liên quan đến họ,
nên họ thích nhìn cho tường tận cái đối tượng được họ quan tâm; từ đó họ
đem hết khả năng bóc tách đi mọi vỏ bọc sự vật, họ vứt bỏ mọi thứ gì ngăn
cách họ với sự vật và tước bỏ đi mọi thứ gì che mắt con người nhìn thẳng
vào đó, đặng nhìn giữa ban ngày ban mặt và nhìn thật gần vào sự vật. Chẳng
mấy chốc, trạng thái tinh thần đó khiến họ coi khinh các hình thức biểu hiện,
coi đó như là những tấm mạng che vô ích và cồng kềnh ngăn cách giữa họ
và chân lí.
Như vậy là người Mĩ không có nhu cầu tìm trong sách vở cái phương
pháp triết học riêng cho mình, phương pháp đó họ tìm thấy ngay trong bản
thân họ. Tôi cũng sẽ nói thêm chừng ấy về những gì diễn ra ở châu Âu.
Ở châu Âu, phương pháp triết học đó chỉ được hình thành và phổ cập một
khi các điều kiện đã trở nên bình đẳng hơn và mọi người trở nên giống nhau
hơn.
Ta hãy xem xét đôi chút sự diễn biến theo trình tự thời gian:
Vào thế kỉ thứ XVI, các nhà cải cách tìm cách cho con người dùng lí tính
cá nhân của mình để phán xét một vài tín điều của niềm tin cũ; nhưng họ lại
vẫn tiếp tục không cho lí tính cá nhân được thảo luận xem xét những tín điều
khác. Vào thế kỉ XVII, Bacon