Phương pháp triết học thế kỉ XVIII như vậy không mang riêng một tính
chất Pháp, mà nó mang tính chất dân chủ, điều đó lí giải vì sao nó được
người ta tiếp nhận dễ dàng đến thế trên toàn cõi châu Âu, nơi nó đã đóng
góp biết bao nhiêu để làm thay đổi bộ mặt châu lục này. Không phải tại vì
người Pháp đã thay đổi các niềm tin cũ và biến cải các tập tục xưa của mình
nên họ đã làm cho thế giới này đảo điên lên, mà chính bởi vì họ là những
người đầu tiên khái quát hoá và đưa ra ánh sáng một phương pháp triết học
nhờ đó con người dễ dàng tiến công vào mọi sự vật xưa cũ và mở đường cho
mọi sự vật mới mẻ.
Nếu bây giờ có ai hỏi tôi, vì sao bây giờ vẫn phương pháp đó lại được
người Pháp đem dùng nghiêm ngặt hơn và phổ biến hơn so với người Mĩ là
nơi sự bình đẳng trọn vẹn hơn và lâu đời hơn, tôi sẽ trả lời rằng: điều đó một
phần là do hai cảnh huống mà ta phải hiểu đã thì mới hiểu được nốt.
Chính tôn giáo đã đẻ ra các xã hội Anh–Mĩ: ta chớ bao giờ được phép
quên điều đó; ở Hoa Kì, tôn giáo hoà vào với mọi thói quen mang tính dân
tộc và mọi tình cảm được tổ quốc làm nảy sinh ra; điều này đem lại cho tôn
giáo một sức mạnh đặc biệt.
Cộng vào cái lí do mạnh mẽ đó, xin hãy thêm một lí do khác nữa không
kém phần mạnh mẽ: ở nước Mĩ, có thể nói tôn giáo tự xác định lấy giới hạn
của mình; quyền lực tôn giáo ở nước Mĩ được phân biệt hoàn toàn rõ rệt với
quyền lực chính trị, đến độ ta có thể thay đổi dễ dàng các luật lệ xưa cũ mà
không làm lung lay các tín ngưỡng đã có từ lâu đời.
Như vậy là đạo Ki Tô đã duy trì được một quyền uy to lớn đối với tinh
thần người Mĩ, và, đây là điều tôi rất muốn nêu ra, đạo Ki Tô không chỉ ngự
trị như một triết học được con người tiếp nhận sau khi đã xem xét nó kĩ
lưỡng, mà còn như một tôn giáo được mọi người tin theo không bàn cãi gì
hết.
Ở Hoa Kì, các giáo phái Ki Tô vô cùng đa dạng và biến cải không ngừng,
nhưng bản thân đạo Ki Tô lại là một sự kiện đã đứng vững và không gì có
thể cưỡng lại nổi mà người ta chẳng cần phải công kích nó cũng như bênh
vực nó.