chẳng thấy đâu một cái ý chí thường xuyên điều khiển các vận động của
đám đông. Vào những thời kì đó, nhân loại dường như tự nó tiến bước lên.
Để lí giải những gì đang xảy ra trên thế giới, người ta chỉ còn cách tìm ra
một vài nguyên nhân lớn mà, khi chúng tác động như nhau đến từng con
người giống nhau, đã khiến họ tự nguyện đi theo chung một con đường.
Điều đó một cách tự nhiên cũng dẫn dắt trí tuệ con người đến chỗ nghĩ ra
những ý tưởng tổng quát và đưa họ đến chỗ tiêm nhiễm cùng một thị hiếu.
Trên đây tôi đã chỉ ra vì sao sự bình đẳng về điều kiện lại khiến từng con
người tự mình đi kiếm tìm chân lí. Dễ thấy rằng một phương pháp như thế
hẳn sẽ lạnh lùng đưa trí tuệ con người đến những ý tưởng tổng quát. Khi tôi
bài bác những truyền thống về giai cấp, về nghề nghiệp và gia đình, khi tôi
bỏ cách nghiên cứu nhờ vào thí dụ và khi chỉ còn dựa vào lí tính của mình
để mà biện luận và tìm ra con đường phải theo, tôi muốn đi thẳng vào bản
tính người để tìm cho được những động lực của những gì mình đang suy
nghĩ, điều đó tất yếu và gần như ngoài ý định của tôi, dẫn tôi đến vô số khái
niệm rất tổng quát.
Tất cả những gì đã nói bên trên là đủ để giải thích vì sao người Anh tỏ ra
rất ít kĩ năng và thị hiếu trong việc khái quát hoá các ý tưởng so với con cái
họ là những người Mĩ, và nhất là so với các ông bạn láng giềng người Pháp,
và cũng giải thích vì sao người Anh ngày nay còn bộc lộ thiên hướng đó hơn
cả cha ông họ nữa.
Người Anh trong một thời gian dài từng là một dân tộc rất sáng láng và
đồng thời rất quý tộc. Sự thông tuệ của họ khiến họ không ngừng vươn tới
những ý tưởng rất tổng quát, và thói quen quý tộc của họ đã kìm giữ họ
trong những ý tưởng rất đặc biệt. Từ đó mà họ có cái triết học vừa táo bạo
lại vừa rụt rè, vừa quảng bác lại vừa hẹp hòi, đã thống trị nước Anh cho tới
tận bây giờ, và vẫn còn cầm tù ở đó biết bao trí tuệ đang bị siết chặt và bất
động.
Bất kể là đã có nguyên nhân nào trong những điều tôi chỉ ra bên trên, ta
còn bắt gặp những nguyên nhân khác nữa, kém lộ liễu nhưng không kém