tượng các nhà thơ trở về mặt đất và giam họ vào trong cái thế giới hữu hình
và thực tại.
Khi đó, dù cho sự bình đẳng vẫn chưa làm lung lay được các tôn giáo,
song nó cũng đã làm cho các tôn giáo trở nên giản đơn hơn; nó làm cho đầu
óc con người quay đi không chú ý đến những tác nhân thứ yếu nữa, để đem
họ bằng được tới đấng quyền uy tối cao.
Một cách tự nhiên nền quý tộc trị dẫn dắt tinh thần con người đến chỗ
tường ngắm quá khứ để rồi bị bám chặt vào đó. Nền dân trị thì khác, nó đem
lại cho con người một thứ ghê tởm mang tính chất bản năng đối với cái gì
xưa cũ. Trong chuyện này, nền quý tộc trị tạo thuận lợi cho thi ca; vì sự vật
càng ở cách xa thì càng to lớn lên và càng mờ mờ ảo ảo. Và dưới mối quan
hệ hai mặt đó, nền quý tộc trị càng giúp được nhiều hơn cho việc tô điểm cái
lí tưởng.
Sau khi quyền bình đẳng tước bỏ mất của thi ca cái quá khứ, nó dần dần
tước đi nốt của thi ca cái hiện tại.
Ở những quốc gia quý tộc trị, có một số lượng nhất định những cá nhân
có đặc quyền, cuộc sống của họ có thể nói là nằm bên ngoài và nằm cao hơn
thân phận chung của con người. Quyền lực, giàu sang, vinh quang, thông
thái, tinh tế và nổi bật trong mọi lĩnh vực hình như là thuộc tính của những
con người đó. Đám đông chẳng khi nào được mon men tới nhìn họ hết và
cũng chẳng tỉ mỉ theo dõi được họ. Người ta chẳng phải làm bao nhiêu để
giúp cho hình ảnh những con người đó được mang chất thơ.
Mặt khác, cũng ở các quốc gia đó lại có những lớp người ngu tối, khiêm
nhường và sẵn sàng làm thân nô lệ. Những lớp người này, ngay trong sự thô
lỗ và khốn cùng quá đáng của họ, cũng là cái cớ cho sự nảy nở của thi ca,
cũng hệt như sự tinh tế và sự vĩ đại của những lớp người đặc quyền kia đối
với thi ca vậy. Ngoài ra, do chỗ các giai tầng xã hội khác nhau trong một
quốc gia quý tộc trị vốn dĩ xa cách nhau và ít hiểu biết lẫn nhau nên trí
tưởng tượng bao giờ cũng có thể thêm thắt hoặc bớt xén hình ảnh thực của
nhau để biểu đạt nhau.