những động lực ấy thúc ép họ hành động. Chỉ còn một con đường mở ra cho
họ, đó là thương mại. Trong các quốc gia dân trị, chẳng có gì to tát hơn và
huy hoàng hơn nghề thương mại; đó là nơi hấp dẫn con mắt công chúng
nhìn vào và lấp đầy tưởng tượng cho đám đông quần chúng; mọi đam mê
đầy năng nỗ đều hướng tới công cuộc thương mại. Không gì có thể ngăn cản
người giàu lao vào thương mại, các định kiến của họ cũng như định kiến của
bất kì ai khác đều bị bỏ qua hết. Người giàu một quốc gia dân trị không bao
giờ tạo thành một tổ chức có tập tục riêng và đường lối riêng; những tư
tưởng đặc biệt trong tầng lớp đó chẳng khiến họ phải dừng bước tiến, còn
các tư tưởng chung của cả dân tộc thì lại thúc giục họ tiến lên. Vả chăng,
những sản nghiệp lớn ta vẫn thấy trong một quốc gia dân trị vốn đều có gốc
gác từ thương nghiệp, nên có trải qua rất nhiều thế hệ kế tiếp nhau nữa, cũng
không chắc gì những chủ sở hữu các sản nghiệp đó có thể đánh mất thói
quen buôn bán đổi chác.
Bị nền chính trị dân chủ của đất nước thu hẹp họ lại trong một không gian
chật hẹp, người giàu khắp nơi đều lao vào công cuộc thương mại; trong
công cuộc này, họ có thể mở rộng và sử dụng những ưu thế tự nhiên của
mình; và nếu như những con người đó vốn là quý tộc nòi, thì ta còn cần phải
biểu dương sự táo bạo của họ và cái tầm kĩ năng công nghiệp được họ đem
sử dụng vào thương nghiệp nữa.
Ta có thể đem nhận xét đó áp dụng vào cho mọi con người dù giàu dù
nghèo sống trong các thể chế dân chủ.
Những con người sống trong lòng sự bất ổn định của thể chế dân chủ thì
lúc nào cũng nhìn thấy sự rủi ro mang tính ngẫu nhiên, nên cuối cùng họ đều
ưa thích mọi công cuộc nào có yếu tố ngẫu nhiên.
Thế là tất cả họ đều hướng vào thương mại, không chỉ ở khu vực đó hứa
hẹn kiếm ra tiền, mà vì tình yêu những cảm xúc mạnh do công cuộc đó
mang lại.
Hoa Kì chỉ mới thoát thân ra chừng nửa thế kỉ nay khỏi bàn tay nước Anh
duy trì họ trong cảnh lệ thuộc của chế độ thuộc địa; số lượng những người
có sản nghiệp lớn còn khá bé nhỏ, và những tư bản lớn đang còn hiếm hoi.