lùa qua các khe tường thổi phập phồng. Gần tấm bản đồ, trên một tấm ván xè tạm có mấy cuốn
sách: thấy ở đó có Kinh Thánh, sáu tập thơ đầu của Milton và hai vở kịch của Shakespeare.
Dọc theo bức tường là mấy cái hòm chứ không dùng tủ đựng đồ. Giữa nhà là cái bàn đóng thô
kệch, chân bàn bằng gỗ chưa bóc vỏ làm ta ngỡ như thể chúng mọc từ dưới đất lên vậy. Trên
bàn có một bình pha trà bằng sứ của Anh, thìa bằng bạc, vài cái chén đã mẻ và mấy tờ báo.
Ông chủ ngôi nhà này có nét mặt góc cạnh, chân tay thon thả, chứng tỏ đó là dân vùng New
England. Hiển nhiên là con người này không sinh ra trong cảnh cô đơn nơi chúng tôi bắt gặp
ông đây. Dáng dấp bề ngoài của ông đủ để mọi người thấy thuở nhỏ ông sống trong lòng xã hội
trí thức, và ông thuộc về cái hạng người âu lo, có lí trí và phiêu lưu, hạng người lạnh lùng thực
hiện những hành động chỉ có thể giải thích bằng những đam mê nhiệt thành, và là hạng người
chịu bị thuần phục chốc lát trong cuộc sống hoang dã đặng chiến thắng hoang mạc và khai hoá
cho hoang mạc.
Khi người đi tiên phong khai phá thấy chúng tôi bước qua bậu cửa đi vào nhà ông, theo tục
lệ ông bước lên chìa bàn tay ra hiệu đón chúng tôi. Thế nhưng nét mặt ông vẫn cứng quèo. Rồi
ông cất tiếng trước hỏi chúng tôi xem tình hình thế giới bên ngoài có những gì mới mẻ, và khi
đã thoả cơn tò mò, ông ngồi im không nói năng gì nữa. Ta ngỡ như ông cảm thấy mình bị
khách không mời mà đến và tiếng động làm phiền hà. Đến lượt chúng tôi lên tiếng hỏi han ông,
và ông cung cấp cho chúng tôi mọi thông tin chúng tôi cần. Tiếp đó, ông dọn các thứ đồ ăn thức
uống cho chúng tôi, không tỏ vẻ gì là vồn vã hết, song cẩn thận chu tất. Thấy ông ân cần chăm
lo cho mình như vậy, ấy thế mà chẳng hiểu vì sao, dù là trái với lòng mình, nỗi hàm ơn của
chúng tôi lại cứ lạnh giá đi. Đó là vì sự hiếu khách của ông chủ bộc lộ sự chịu đựng cái tất yếu
nhọc nhằn của thân phận: ông cảm thấy hoàn cảnh mình buộc mình phải thế, chứ ông không
cảm thấy cái thú vị được đãi khách phương xa.
Ở góc đằng kia của căn lều, một người đàn bà còn trẻ ngồi với đứa con nhỏ trên đùi. Bà ta
chỉ gật đầu ra hiệu chào chúng tôi, rồi vẫn ngồi nguyên đó. Cũng giống như người đàn ông đi
tiên phong khai phá, chị ta đang ở tuổi còn trẻ căng, dáng dấp bên ngoài cho thấy con người ấy
vẫn đứng cao hơn thân phận hiện tại, áo quần đang mặc cho thấy một ý thích điểm trang vẫn
chưa tắt ngấm. Nhưng chân tay chị ta như thể ngắn lại, nét mặt mệt mỏi, mắt nhìn dịu dàng và
trầm buồn. Ta thấy dàn trải trên gương mặt chị là một sự nhẫn nại chịu đựng mang tính chất tôn
giáo, nhưng đam mê chìm trong thanh thản sâu xa, ở người đàn bà ấy có cái gì đó như là một sự