Tín ngưỡng Việt Nam
50
giá. Dấu Thánh giá chính là sự tóm tắt của “Tôi kính tin”.
Dấu thể hiện qua hành động và lời cầu.
Theo sách phần thì khi làm dấu đặt bàn tay phải lên trán, rồi
xuống ngực, kế đến vai bên trái và sau cùng là vai bên phải,
đồng thời miệng đọc: nhân danh cha và con và Thánh thần.
Ở I pha nho (Tây Ban nha), từ thời thượng cổ, trước khi
làm dấu như trên, các tín đồ đã làm ba dấu nhỏ ở trán, ở môi
và ở ngực và miệng đọc:
Bởi dấu Thánh ciá, xin chúa cứu vớt chúng con khỏi tay
kẻ độc và sau đó cũng đọc thêm như tín đồ mọi nơi: nhân
danh cha và con và Thánh thần. ngày xưa, trong thời các
vị sứ đồ, người ta làm dấu trên trán những người theo chúa
và trên các đồ vật để tỏ rằng đó là những người của chúa và
những vật dùng để phụng sự chúa.
Việc làm dấu bắt đầu có từ thế kỷ thứ VI với sự làm dấu trên
trán và ngực. Sau đó ít lâu là ba dấu ở trán, môi và ngực. Mãi tới
thế kỷ thứ VIII sự làm dấu mới hoàn toàn như ngày nay, và thể
hiện bởi các tín đồ từ Đông sang Tây. người Hy Lạp làm dấu
bằng ba ngón tay cái, trỏ và giữa của bàn tay phải, và dấu làm
từ phải sang trái để tượng trưng cho Ba ngôi Tam Vị nhất Thể.
Ba dấu nhỏ trên trán, môi và ngực đã cắt nghĩa như sau:
Dấu trên trán chỉ đức Tin ở chúa, dấu trên môi và ngực biểu
lộ sự tuân hành lời phán và việc làm chúa dạy.
Dấu thường làm vào lúc nào? Trước và sau khi cầu kinh,
khi tín đồ bắt đầu một việc gì: ăn uống, làm việc hoặc ra đi.
các tín đồ trung thực khi đi qua một Thánh đường hoặc một
Thánh giá đều làm dấu, cũng như khi mới dậy và khi đi ngủ.
Sự làm dấu chính là sự chứng tỏ lòng Tin chúa, và đã tin
chúa thì tín đồ phải luôn kính cẩn làm dấu trong tất cả những
trường hợp cần thiết.