ca. Cha cố quan sát thấy trong cung cách hành động của bà không hề có
tình thương và lòng trắc ẩn mà chỉ có một sự tuyệt đối coi thường cuộc
sống của một con vật.
- Bà không thích những con chim – Cha nói một cách nhẹ nhàng nhưng
dứt khoát.
Bà quả phụ mở to mắt trong một cử chỉ thiếu bình tĩnh và khó chịu.
- Dẫu có đôi lần con thích chúng. – Bà nói – Giờ đây con căm ghét
chúng vì chúng cứ chui vào nhà con để chết.
- Đã chết nhiều lắm – Cha nói vẻ không thương xót. Có thể nghĩ rằng
trong giọng nói đơn điệu của cha có rất nhiều trò ranh ma.
- Tất cả cũng thế mà thôi – Bà quả phụ nói. Và trong lúc chán nản lôi
con chim ra khỏi ca nước và đặt vào ống tay áo thụng của cha, bà nói: – Và
điều đó chẳng quan trọng gì đối với con cả nếu chúng không phá thủng các
tấm lưới chắn cửa nhà con.
Cha cảm thấy rằng chưa bao giờ cha gặp một trái tim sắt đá như vậy. Một
lát sau, vì đã cầm con chim trong tay rồi, cha biết rằng cái cơ thể nhỏ nhoi
và không thể tự vệ kia đã ngừng tiếng tim đập. Thế là cha quên sạch: quên
cái mùi ẩm của ngôi nhà, quên thói tham lam, quên cái mùi không thể chịu
nổi của thuốc súng trên thi thể của Hôsê Accđiô Buênđya, và cha nhận ra
sự thật huy hoàng từng bao quanh mình kể từ đầu tuần. Cũng tại đây, trong
lúc bà quả phụ nhìn cha ra khỏi ngôi nhà với hai bàn tay cầm con chim chết
rồi và một thái độ dọa nạt, thì cha cảm thấy mình đang dự vào sự khải thị
huyền ảo rằng một trận mưa những xác chim đang rơi xuống làng và rằng
mình, sứ giả của Thượng đế, kẻ có số phận thấy trước niềm hạnh phúc khi
nào trời mát, đã hoàn toàn quên mất Ngày Khải huyền.