nhờ nó cha không hoàn toàn tỉnh hẳn cho đến buổi chiều ấy, sau 4 giờ một
lát, khi cha gióng những tiếng chuông cuối cùng báo tin về bài thuyết giảng
rùng rợn mà cha sẽ đọc ngày chủ nhật. 8 giờ sau đó, người ta đến tìm cha
để làm lễ sức dầu cuối cùng cho một người đàn bà.
Do vậy mà cha không biết ai đó đến làng chiều ấy trên tàu hỏa. Đã từ lâu
cha nhìn bốn toa tàu xộc xệch, bạc màu đi qua. và không nhớ rằng ít nhất
trong những năm này có ai đó từ trên những toa tàu này bước xuống để ở
lại đây. Trước đây thì khác hẳn, cha có thể đứng suốt một buổi chiều để
ngắm nhìn một đoàn tàu trở chuối: một trăm bốn mươi toa chở toàn chuối
quả, cứ chạy mà không nghỉ, cho đến khi đêm xuống được khá lâu toa cuối
cùng với một người cầm ngọn đèn xanh mới đi qua. Thế là lúc đó cha nhìn
làng ở phía bên kia đường sắt – đã thắp sáng đèn – và cha có cảm giác con
tàu đã đưa mình đến một làng khác với chỉ một việc nhìn nó chạy qua thôi.
Có lẽ từ đó cha có thói quen có mặt tại nhà ga xe lửa vào tất cả mọi ngày,
kể cả sau khi người ta xả súng vào những người lao động và các đồn điền
chuối ngừng hoạt động và cùng với chúng cũng biến mất tăm con tàu dài
một trăm bốn mươi toa và chỉ còn lại cái con tàu vàng đầy bụi phủ chạy
qua làng vào lúc 1 giờ chiều mà chẳng chờ một ai cả.
Nhưng thứ Bảy ấy có người đến làng. Khi cha Antôniô Isaben đi khỏi
nhà ga, có một cậu thanh niên hiền lành dễ mến, chẳng có gì đặc biệt ngoài
cái vẻ đói cơm ra, đã nhìn thấy cha qua cửa sổ toa xe cuối cùng trong
khoảnh khắc đúng lúc nhận ra rằng mình chưa ăn cơm từ ngày hôm trước.
Cậu ta nghĩ rằng nếu có cha cố có thể có một khách sạn. Cậu ta từ trên toa
tàu bước xuống, rồi đi qua con đường nóng như than lửa dưới ánh nắng
tháng Tám rám trái bưởi, rồi bước vào bóng râm mát của một ngôi nhà nằm
ở phía trước nhà ga, là nơi đang vang lên tiếng nhạc rè rè phát ra từ đĩa hát
cũ được đặt trên một cái máy hát. Khứu giác trở nên tinh nhạy nhờ cơn đói
liền hai ngày, đã mách bảo cậu đấy là khách sạn. Cậu bước vào đó, mà