Hômêrô nhìn thấy ngài cứ lắp đi lắp lại những hoạt động của ngày ấy. Anh
ta không rời mắt khỏi ngài và đôi lúc chỉ cách ngài một khoảng cách ít thận
trọng nhất trong các cú đi dạo ban đêm giữa những tường thành buồn tẻ và
những ngọn đèn đường tỏa ánh sáng vàng quạch của một thành phố già
nua. Anh ta đã theo sau ngài trèo lên bậc đá từng bậc từng bậc một, người
như bị ngạt bởi hương nhài thơm ngào ngạt để ngắm nhìn những buổi chiều
hè chậm chạp tắt đi trên đỉnh núi Bourg-le-Four. Một đêm nọ, anh ta nhìn
thấy ngài đứng dưới cơn mưa dầm đầu tiên, không áo khoác ngoài cũng
chẳng che ô, để xếp hàng cùng với đám thanh niên vào nghe bản giao
hưởng của Rubinstein. “Anh không hiểu vì sao ngài lại không bị sưng
phổi”, anh ta nói với vợ. Ngày thứ bảy trước, khi thời tiết bắt đầu thay đổi,
anh ta thấy ngài tổng thống mua một chiếc áo khoác ngoài mặc mùa thu với
một chiếc cổ lông báo giả, nhưng không mua ở các cửa hàng lộng lẫy trên
đại lộ Rhône, nơi các ông hoàng tị nạn hay đến mua mà lại ở Chợ Pungat.
- Vậy là chẳng có gì phải bàn cả – Laxara thốt lên khi Hômêrô kể – Đó là
một thằng già keo kiệt, chỉ đủ khả năng xin được chôn không mất tiền tại
một mộ chung. Chẳng bao giờ chúng ta moi được gì ở ông ta đâu.
- Có lẽ ngài nghèo thật sự sau nhiều năm không có việc làm – Hômêrô
nói.
- Ôi, anh yêu! Anh nên nhớ cho: một đằng là một người được sao Song
Ngư phù hộ lên cao với sao Song Ngư, còn một đằng là kẻ khốn nạn –
Laxara nói – Cả thiên hạ đều biết ông ta đã bằng vàng mà leo lên chức
Tổng thống và hiện thời là một người tị nạn giàu có nhất của nước
Mactinich.
Hômêrô, vốn lớn hơn vợ cả chục tuổi, lớn lên trong niềm tin đầy xúc
động rằng ngài tổng thống đã học ở Giơnevơ, đã lao động như công nhân
xây dựng. Ngược lại, ngay từ khi còn là con ở giữ trẻ nhỏ, Laxara được