Ngài sống ở đảo Mactinica suốt cả thời gian tị nạn không có mối liên hệ
với bên ngoài nào hơn là một số ít tin tức đăng tải trên các tờ báo chính, cố
gắng duy trì các buổi học tiếng Tây Ban Nha và tiếng Latinh tại một trường
công và các bản dịch mà nhà thơ Aimé Césaire giao cho. Về tháng tám, cái
nóng thật là không thể nào chịu nổi và ngài nằm trên võng cho đến giữa
trưa mà đọc sách trong làn gió thổi của chiếc quạt nơi phòng ngủ. Vợ ngài
chăm nom những con chim được nuôi thả tự do, vào cái giờ nóng nhất để
tránh ánh nắng như lửa đốt, bà đội một chiếc mũ rộng vành có gài những
hoa trái thủ công mỹ nghệ làm bằng giấy và vải lanh. Nhưng khi cơn nóng
thuyên giảm thì việc ngồi hóng mát ở ngoài sân hiên quả là thú vị. Ngài
chăm chú ngắm nhìn biển cả cho đến khi nó chìm đi trong sương khói, còn
bà ngồi trên ghế xích đu mây với chiếc mũ rách và những chiếc nhẫn quái
quỉ đeo trên tất cả các ngón tay, để mà ngắm nhìn những con tàu của thế
giới đi qua. “Chiếc tàu kia sẽ đi Puêrtô Ricô!”, bà bảo thế, “Chiếc kia hầu
như không thể đi được nữa vì chở quá nặng thứ đậu được trồng ở Puêrtô
Ricô!”. Bởi bà thấy không thể nào lại không có những con tàu của quê nhà
không đi qua đây. Ngài cứ giả điếc hoài dẫu rằng vào phút chót, bà lại tìm
được cách quên đi nỗi nhớ quê tốt hơn ngài, bởi vì bà bị mất trí hoàn toàn.
Họ cứ ngồi lặng lẽ như thế cho đến khi hoàng hôn thơm lựng kết thúc và
phải chạy vào nhà vì không chịu nổi muỗi sangcuđô đốt cho. Một trong số
rất nhiều những tháng tám ấy, trong lúc ngồi đọc báo ở ngoài sân hiên, ngài
tổng thống nhảy cẫng lên vì ngạc nhiên:
- Ôi, của khỉ! – Ngài nói – Ta vừa chết ở Estorin!
Vợ ngài, vốn đang chìm trong cơn ngủ gà ngủ vịt, bỗng giật mình trước
tin đó. Cái tin chỉ sáu dòng đăng trên trang năm của tờ báo vốn được in ở
mặt sau khu phố, và các bản dịch của ngài được đăng trên tờ báo này mà
chủ bút của nó vẫn thi thoảng đến thăm ngài. Giờ đây, tờ báo ấy đưa tin
ngài đã tạ thế ở Estorin thuộc Lisbôn, bãi tắm và cái tổ của sự suy đồi Âu