yêu đẹp đẽ trong cơn hấp hối hạnh phúc” khi đặt xong dấu chấm cuối cùng
cho một cuốn sách.
“Gabo (tên gọi thân mật của García Marquéz) thường hỏi tôi những
câu rất cơ bản, như tên của anh ấy là gì, anh ấy đã dùng bữa chưa?” – Jaime
nói thêm về cảm xúc của mình với người anh trai 85 tuổi lừng danh của
mình trên tờ The guardian: “Anh ấy có những vấn đề về trí nhớ. Đôi lúc,
tôi phát khóc, bởi vì cảm giác như thể mình đang mất anh ấy”.
Sự ngỡ ngàng của người đọc là dễ chia sẻ. Bởi, trong vai trò là cha đẻ
của văn học hiện thực huyền ảo, Gabriel Gacía Márquez không chỉ tạo ra
không khí huyền ảo đầy mạnh mẽ và hấp dẫn vào trong khí quyển của hàng
ngàn trang viết, mà còn đủ sức tạo ra quanh cuộc đời lao động văn chương
của mình một huyền thoại lớn về sức sáng tạo, sức ảnh hưởng mãnh liệt đối
với cả những nhà văn ở các nền văn hoá khác. Trong thiên “huyền thoại
mới” về ngôi làng Macondo của Trăm năm cô đơn, Márquez đưa người
đọc vào một bản đồ dòng họ Buendia với chằng chịt các mối quan hệ vợ
chồng, cha con, tình dục… khiến dịch giả Việt Nam Nguyễn Trung Đức
phải làm một việc khá công phu là đi xác lập giùm người đọc một bản đồ
gia hệ vào đầu cuốn sách để tiện cho việc theo dõi. Thế nhưng, ít ai biết
rằng, tiểu thuyết quan trọng và phức tạp nhất, đã đưa Máquez đến với giải
Nobel Văn chương, được ông đóng cửa tập trung viết trong 18 tháng trời,
giữa lúc khốn khó nhất của gia đình và tâm lý sáng tạo xuống dốc vì ý định
thử nghiệm viết kịch bản điện ảnh bị phá sản (bà Mercedes, vợ ông, đã phải
vay 10.000 USD trước khi cuốn tiểu thuyết trở nên ăn khách vào năm
1967).
Các tác phẩm ký, phóng sự của ông như Ký sự về một cái chết được
báo trước, Tin tức về một vụ bắt cóc, Nhật ký người chìm tàu lại hấp
dẫn người đọc bởi sự trải nghiệm, dấn thân với đời sống đầy khốc liệt, hệ
luỵ đầy thảm khốc từ những cuộc chính biến trong khu vực Mỹ Latinh.