mình. “Trang web nói rằng bảo tàng đóng cửa lúc năm giờ. Làm sao em
biết được lại có một đám cưới chứ?”
Một đám cưới? tôi nhìn xuống và thấy Sadie nói đúng. Một vài phụ nữ
mặc những chiếc váy phù dâu màu hồng đào. Trên một trong những chiếc
bàn là một chiếc bánh ba tầng màu trắng. Hai nhóm khách đã nâng cô dâu
và chú rể trên hai chiếc ghế và khiêng họ đi khắp gian phòng trong khi bạn
bè quây xung quanh họ, nhảy múa và vỗ tay. Toàn cảnh trông như thể một
cú đâm trực diện với đồ đạc sắp sửa diễn ra.
Khufu gõ lên mặt kính. Dù mặc quần áo đen, nó chẳng dễ hòa vào
bóng tối với bộ lông vàng kim, chưa kể đến cái mũi màu cầu vồng và bàn
tọa của nó nữa.
“Á!” nó gầm gừ.
Bởi nó là khỉ đầu chó, nên nói như vậy có thể nghĩa là Nhìn kìa, dưới
kia có đồ ăn hoặc Tấm kính này bẩn thế hay Này, mấy người kia đang làm
chuyện ngu ngốc với mấy chiếc ghế.
“Khufu đúng đấy,” Sadie phiên dịch. “Chúng ta sẽ khó mà lẻn ra qua
bữa tiệc kia. Có lẽ nếu chúng ta vờ là đội bảo dưỡng -”
“Hẳn vậy,” tôi đáp, “thứ lỗi cho chúng tôi nhé. Bốn đứa nhóc đi qua
với một bức tượng nặng ba tấn. Chỉ đưa tượng qua mái nhà thôi hả. Đừng
để tâm đến chúng tôi.”
Sadie trợn mắt. Con bé lôi cây đũa thần của mình ra – một cây đũa
cong bằng ngà trạm trổ hình ảnh các quái vật – và chỉ vào chân mái vòm.
Một ký tự tượng hình màu vàng kim cháy lên, và ổ khóa cuối cùng bật ra.
“Nào, nếu chúng ta không dùng lối này làm đường rút,” em tôi nói,
“thì tại sao em mở nó ra nhỉ? Chẳng lẽ ta không thể thoát ra bằng lối ta vào
– qua cửa sổ bên?”