280
281
đằng, hồi văn, sóng nước vân vân. Viền
gấm hạng nhất hoa sen thuần vàng màu
bảo lam, lót sa Nam mát bóng màu vàng
chính sắc. Kế y
(áo lót cổ tròn gắn với thường)
may
bằng lụa trắng.
Tế tất một chiếc, làm bằng tơ Bát ti
bóng màu vàng chính sắc, lót lụa màu đỏ,
thêu chương Sơn, Long, hình mây và các
hình hỏa lựu. 4 đường biên may liền đoạn
gấm lan can thuần bạc hoa mai màu bảo
lam xen với đoạn Bát ti bóng màu hoa xích
(đỏ hoa)
. Viền gấm hạng nhất hoa sen thuần
vàng, 4 móc vàng, 4 cúc vàng.
Đại thụ một chiếc, làm bằng đoạn
Bát ti bóng màu thiên thanh, lót lụa màu
vàng, thêu hình rồng mây, sóng nước và
các hình cổ đồ. Bên trên may liền một
miếng (ngọc trắng) hình bán nguyệt với
đoạn Bát ti bóng màu hoa xích, thêu các hình rồng mây xen với hình lan
can kim tuyến. Đường biên may liền đoạn gấm lan can thuần bạc hoa
mai màu bảo lam. Viền gấm hạng nhất hoa sen thuần vàng màu bảo lam
kết với dây nhung xâu ngọc các màu. 1 dải thùy anh, 2 dải thùy lưu xen
dùng trừu bóng màu vàng, trắng, đỏ.
Phía dưới kết lưới, thùy anh và móc bạc
4 chiếc, cúc vàng 7 hạt.
Ngọc bội hai dải. Mỗi dải có 1 ngọc
trắng hình con dơi, 1 ngọc trắng hình
vuông, 1 ngọc trắng hình tròn, 2 ngọc
trắng hình bán nguyệt, 1 ngọc trắng
hình khánh, xâu chuỗi với các hạt vân
mẫu, san hô, hổ phách màu đen, mỗi
loại hơn 200 hạt, 1 móc câu vàng.
Cách đới một chiếc, bọc tơ Bát
ti bóng màu vàng chính sắc, kết với 1
miếng ngọc trắng hình vuông, 6 miếng
ngọc trắng hình chiếc mộc, bên ngoài
đều khảm các hạt trân châu nhỏ. Võng
cân sức 4 khuyên vàng.”
(1)
Theo ghi nhận của Hội điển, Đại
Nam thực lục và hình vẽ trong BAVh, mũ
Miện dành cho hoàng đế triều nguyễn là
loại mũ Miện 12 lưu (phía trước 12 lưu,
phía sau 12 lưu), khớp với các nguyên
tắc của mũ Miện dành cho thiên tử theo
Chu lễ. Tuy nhiên, như chính lời vua Minh
Mạng nói “Cổn Miện có từ thời Hiên Viên
[…] trẫm nay noi theo phép xưa mà thêm
bớt”
(2)
, dây sung nhĩ gắn ở hai bên thái
dương mũ được đổi thành hai dải lưu, dây
hoằng màu đỏ son được đổi thành dây
thùy anh làm bằng tơ vàng, cùng lối trang
trí trên đỉnh miện bản và quanh thân mũ
đều có thể coi là những nét đặc sắc chỉ
xuất hiện ở mũ Miện của triều nguyễn.
Kết hợp với loại mũ Miện 12 lưu là bộ Cổn phục 12 chương, phối
với các phục sức như ngọc khuê, ngọc bội, Đại thụ, Tế tất, Cách đới, Đại
đới v.v. Cụ thể:
Áo Cổn may bằng sa mát bóng thuần chỉ, màu thiên thanh, thêu
6 chương: Nhật, Nguyệt, Tinh thìn, Sơn, Long, Hoa trùng. Dải thùy lưu
(chỉ dải vải buộc áo của áo giao lĩnh, tính chất như cúc)
thêu hình rồng mây, hoặc may
bằng sa mát bóng thuần chỉ màu tuyết bạch. Ống tay áo thêu hình rồng
mây. Cổ áo may bằng đoạn Bát ti bóng màu quan lục. Áo lót trong may
bằng lụa màu trắng thêu hoa văn chữ Á 亞
(tức chương Phất)
, dải thùy lưu
thêu hình rồng mây, sóng nước.
Thường may bằng sa mát bóng thuần chỉ màu vàng chính sắc,
thêu các chương: Tảo, Hỏa, Phấn mễ, Phủ, Phất, Tông di
(Thường 6 chương
kết hợp với áo Cổn 6 chương, tổng cộng 12 chương)
và các hình cổ đồ, bát bảo, liên
1. (Việt) Hội điển - Q.78. Tr.5,6. Nguyên văn: 郊祀冕冠製用上方下圓,釘萬壽金字二,或天地字二,
金龍雲形十二,火焰六,垂文二,遶牆四,蓮花、雲朵、遶圈邊、連藤各一,金粒二百五十六粒,
𨨠、圈各二。前後面冕旒二十四,左右垂旒各一竝串結珊瑚、珍珠、玻璃、金粒該三百粒。四面金
綫網文結金玉四百粒。玉簪嵌以珍珠,結黃絲垂纓。凡龍眼嵌細小珍珠粒。網巾飾金圈四
2. (Việt) Minh Mạng chính yếu. Tập 3. Q.12. Tr.CCLXV-4a.
Mũ Miện của hoàng đế nhà Nguyễn
trong BAVH (1915) và mũ Miện phục
chế (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam; mũ
phục chế thiếu dây thùy anh).
1. Áo lót thêu hoa văn chữ Á của vua
Triều Tiên (còn gọi áo Trung đơn); 2.
Thường và Kế y của vua quan triều
Nguyễn (BAVH).
Ngọc bội kết hợp với Cổn phục của vua
triều Nguyễn (BAVH); 2. Tạp bội đồ
(Tam tài đồ hội).