thể nghe thấy tiếng đồng hồ từ phía dưới báo giờ chậm đúng năm phút. Bà
thay quả trứng bị vỡ đã chín vào sọt rác với vẻ quan tâm - tới nó, không
phải tôi. Chồng bà cô bắt tôi uống brandy sau bữa tối, và khi tôi từ chối,
ông hỏi tôi là chuột hay là người. Ông anh Jack gọi cò Ford là “Người Mẹ”,
như trong “Khi nào thì Người Mẹ nghĩ sẽ có cỏ khô cho đám quân đói
ngấu?” và đêm thứ hai, Veronica đã làm nhiều hơn là chỉ đi cùng tôi lên
gác. Nàng nói, “Con sẽ tiễn Tony về phòng cậu ấy,” và nắm tay tôi trước
mặt cả gia đình. Ông anh Jack nói, “Thế Người Mẹ nghĩ gì về chuyện kia?”
Nhưng Người Mẹ chỉ cười. Lời chúc ngủ ngon của tôi dành cho gia đình ấy
tối hôm đó khá vội vàng vì tôi có thể cảm thấy nó đang cương cứng lên.
Chúng tôi bước chậm rãi lên phòng tôi, nơi Veronica đè tôi áp lưng vào
cửa, hôn lên môi tôi và nói vào tai tôi, “Ngủ giấc ngủ của cái bọn hư hỏng
ấy nhé.” Và khoảng chừng bôn mươi giây sau, giờ tôi nhớ rồi, tôi phóng
tinh vào trong cái bồn rửa bé tí và xả trôi tinh dịch xuống ống thoát nước
dọc tòa nhà.
Nảy ra một ý, tôi tìm Chislehurst trên Google. Và khám phá ra rằng
chưa bao giờ có một cái nhà thờ Thánh Michael nào trong thị trấn. Vậy thì
cái chuyến đi tour có hướng dẫn của ông Ford khi ông ta chở chúng tôi hẳn
phải là tưởng tượng - một trò đùa riêng tư nào đó, hoặc là một cách để xỏ
mũi tôi. Tôi cũng nghi ngờ việc có cái quán Café Royal ở đó luôn. Rồi tôi
sang Google Earth
, nhào xuống và zoom quanh thị trấn. Nhưng ngôi
nhà tôi tìm dường như không còn tồn tại nữa.
*
* *
Một đêm khác, tôi cho phép mình uống một ly, mở máy tính lên, tìm
Veronica duy nhất tôi có trong mục sổ địa chỉ. Tôi gợi ý gặp nhau lần nữa.
Tôi xin lỗi về mọi thứ tôi đã làm gây ra những chuyện khó xử trong lần gặp
trước. Tôi thề là tôi không muốn nói về di chúc của mẹ nàng. Cái này cũng
là thật; mặc dù không phải đến tận khi viết cái câu đó thì tôi mới nhận ra là