xuôi theo đường đi Iapha, đúng theo hướng lúc sáng đoàn diễu hành với
những kẻ bị tử hình đã đi qua. Ðến lúc này trời bắt đầu tối, mặt trăng đã hiện
ra nơi chân trời.
Ðoàn xe với đội hộ tống vừa đi được một lát, thì người khách của quan
tổng trấn, giờ mặc một chiếc áo choàng hitôn màu đen thẫm đã cũ sờn, cũng
cưỡi ngựa rời khỏi địa phận lâu đài. Người khách không đi ra ngoại ô, mà
theo hướng vào thành phố. Một lúc sau, ta đã có thể trông thấy anh ta đang
phi đến cổng pháo đài Antoni nằm ở phía Bắc gần sát ngay ngôi đền vĩ đại.
Khách dừng lại trong pháo đài cũng không lâu, rồi sau đó đã lại thấy dấu vết
của anh ta ở Hạ Thành, giữa những đường phố quanh co và rối rắm. Lần
này, người khách cưỡi la để đi đến đây.
Vốn rất biết rõ thành phố, người khách dễ dàng tìm ra được đường phố
mà anh ta cần. Nó mang tên là phố Hy Lạp, vì ở đây có mấy cửa hiệu người
Hy Lạp, trong số đó có một hiệu buôn thảm. Chính ở trước cửa hiệu này
người khách dừng lại, nhảy xuống đất và buộc con la của mình vào chiếc
vòng ở cổng. Hiệu buôn đã đóng cửa. Người khách bước qua chiếc cổng nhỏ
nằm sát cạnh tiệm buôn, vào một khoảng sân vuông nhỏ với mấy dẫy nhà
kho dựng thành hình chữ U. Rẽ vào góc sân, người khách đến cạnh hàng
hiên lát đá mọc đầy dây trường xuân của một ngôi nhà ở và nhìn quanh. Cả
trong nhà lẫn trong các kho đều tối om, chưa có đèn lửa gì. Người khách khẽ
gọi:
“Niza!”
Ðáp lại tiếng gọi đó, cánh cửa mở ra, và trong bóng hoàng hôn chạng
vạng, một người đàn bà còn trẻ không mang mạng che mặt xuất hiện trên
hàng hiên. Chị ta cúi mình trên dãy tay vịn, lo lắng đưa mắt nhìn kỹ, cố nhận
xem người mới đến là ai. Sau khi nhận ra người khách, chị ta mỉm cười thân
mật, gật đầu, vẫy tay chào.
“Cô có một mình thôi à?” – Aphrani hỏi nhỏ bằng tiếng Hy Lạp.
“Một mình, – người đàn bà trên hàng hiên đáp. – Chồng em sáng nay
đã đi Kesaria, – nói đến đây, chị ta ngoái nhìn vào cửa và thì thầm tiếp: -
Nhưng bà đầy tớ có nhà”. – Nói xong chị ta làm một cử chỉ ra hiệu “Vào nhà