rằng sẽ phải tốn rất nhiều công sức. Thoạt đầu, Der không tính đến quyền sử
dụng khoảng không gian phía trên tòa nhà Tiffany, và ông ta quyết định tỷ lệ
FAR là 8,5 - nghĩa là chúng tôi có thể xây một cao ốc hai mươi tầng, mỗi
tầng rộng gần một ngàn mét vuông. Nhưng tôi đã nói ông ta chuyển đổi thiết
kế thành bốn mươi tầng, mỗi tầng rộng khoảng năm trăm mét vuông. Điều
này không chỉ làm cho các căn hộ có tầm nhìn đẹp hơn mà mỗi tầng cũng có
ít căn hộ hơn - đồng nghĩa với việc giá trị của căn hộ sẽ được nâng cao hơn.
Với quyền sử dụng khoảng không gian của Tiffany, tỷ lệ FAR của tôi sẽ
được gia tăng đáng kể. Bên cạnh đó, các nhà phát triển có thể được cấp thêm
tỷ lệ FAR nếu họ cung cấp một số tiện ích mà Ủy ban Quy hoạch thành phố
mong muốn. Ví dụ như, trên khu đất này, tôi có thể xin thêm tỷ lệ FAR
bằng cách xây những căn hộ để ở thay vì chỉ dùng cho văn phòng -trên lý
thuyết, những tòa nhà văn phòng sẽ làm gia tăng lượng người đi bộ và xe cộ.
Ngoài ra, tôi còn có thể xây một khu vực công cộng cho khách bộ hành đi
qua tầng trệt của tòa nhà, mở rộng diện tích dành cho khu vực bán lẻ, và một
công viên bên trong khu vực mua sắm.
Hăm hở với những thuận lợi đạt được, tôi bàn với Der thiết kế một đại sảnh
với nhiều tầng khác nhau cho khu bán hàng. Những trung tâm mua sắm
đang nở rộ khắp nước Mỹ. Chúng sạch sẽ, có kiểm soát, an toàn và vệ sinh.
Nói chung, người tiêu dùng cảm thấy thoải mái khi mua sắm ở đó. Nhưng
chúng hầu như chưa bao giờ thành công ở New York. Người New
York dường như thích cuộc sống đường phố và mua bán với những người
bán hàng rong.
Theo tôi hình dung, cho dù sự thiết kế đó không hoàn toàn thành công như
mong đợi, nó cũng giúp tôi có điều kiện để xây thêm nhiều tầng cho tòa cao
ốc này - giá trị đó còn nhiều hơn chi phí bỏ ra để xây dựng nó. Khi công
trình hoàn thiện, tôi thấy nó thật hoành tráng. Chúng tôi thu hút được
nhiều cửa hiệu tốt nhất trên thế giới. Khi đó, tôi mới nhận ra sự kỳ diệu của
nó.