Dù sao đi nữa thì tôi cũng biết được nhiều người và những khu bất động sản
khi chuyển đến Manhattan, nhưng tôi vẫn chưa tìm được khu đất nào để mua
với giá tôi có thể chấp nhận được. Bất ngờ công việc ở Manhattan bắt đầu
trở nên xấu đi từ năm 1973. Tôi luôn nghĩ rằng thị trường sẽ giảm nhiệt vì
mọi việc đều vận hành theo chu kỳ - có nóng có lạnh, lên cao xuống thấp -
và địa ốc cũng không là ngoại lệ. Tuy vậy, tôi cũng không ngờ mọi việc
chuyển hướng tệ như lúc này. Nó là sự kết hợp của nhiều yếu tố. Đầu tiên,
chính quyền liên bang tuyên bố tạm ngưng chương trình trợ cấp về nhà ở
mà họ đang thực hiện, đặc biệt là ở New York. Đồng thời, lãi suất bắt đầu
tăng sau một thời gian dài đứng ở mức ổn định. Rồi lạm phát xảy ra, đặc biệt
là trong chi phí xây dựng.
Nhưng vấn đề lớn nhất là với chính thành phố. Nợ của thành phố lên đến
mức khiến người ta lo ngại. Lần đầu tiên người ta nói đến khả năng thành
phố bị phá sản. Nỗi lo này kéo theo nỗi sợ kia. Và chẳng bao lâu, New York
rơi vào một cuộc khủng hoảng lòng tin. Người dân không còn tin tưởng vào
thành phố nữa.
Nó không còn là một môi trường hấp dẫn cho những dự án phát triển địa ốc
mới nữa. Trong chín tháng đầu năm 1974, chỉ có khoảng sáu ngàn căn hộ
mới và nhà mới loại cho một gia đình trong năm quận ở New York được cấp
phép, giảm mạnh so với con số 15.000 của cùng kỳ năm trước.
Tôi lo ngại cho tương lai của thành phố New York, nhưng cũng không đến
nỗi phải mất ăn mất ngủ. Tôi là một người lạc quan, và thành thật mà nói, tôi
xem những khó khăn của thành phố như là những cơ hội lớn cho tôi. Vì lớn
lên ở Queens, tôi tin, có lẽ là hơi phi lý, rằng Manhattan sẽ luôn là một nơi
tốt nhất để sống - là một trung tâm của thế giới. Bất kỳ khó khăn nào mà
thành phố phải đối phó chỉ là ngắn hạn, tôi tin rằng mọi việc cuối cùng sẽ tốt
đẹp trở lại.
Một trong những bất động sản luôn quyến rũ tôi là nhà ga bị bỏ hoang chạy
dọc theo sông Hudson, bắt đầu từ đường số 59 kéo dài đến tận đường số 72.