này, được gọi là chiều thứ tư”. Ông cũng dội lửa vào “cái phép phối cảnh lừa
mị khốn khổ..., thứ mà không nghi ngờ gì nữa, đã làm mọi vật bị co lại”.
Năm 1910, hai họa sĩ Lập thể trẻ là Albert Gleizes và Jean Metzinger, đã cố
gắng giải thích trường phái Lập thể trong một luận văn mang tên Du Cuhisme.
Lần đầu tiên, tên của nhà toán học Riemann đã xuất hiện trong bài viết của
nghệ sĩ (mặc dù còn có chỗ sai); nhưng trong tác phẩm lí luận thấu đáo này của
hai nghệ sĩ, điều còn thiếu là không hề có bất kì một viện dẫn nào nhắc đến
Einstein hay Minkowski. Nhưng dù người nghệ sĩ có thể không hiểu những cái
phức tạp tinh tế của thuyết tương đối hay các chiều toán học cao hơn của
không gian, nhưng chính hình ảnh câm lặng và ẩn dụ mang tính thi ca mà
người nghệ sĩ sáng tạo ra, đã miêu tả được điều mà giờ đây các nhà khoa học
còn chưa thể giải thích một cách giản dị và rõ ràng được. Khi Picasso đưa ra
tác phẩm Các cô nàng ở Avignon, đấy là sự đáp lại của ông đối với tiếng nói
thôi thúc nghệ thuật từ bên trong của mình. Tác phẩm mĩ thuật này là một biểu
hiện của cái núi lửa thiên tài sáng tạo đang sôi sùng sục của ông, hơn là một cố
gắng có chủ định nhằm tạo nên một hình ảnh minh họa cho một khái niệm toán
học trừu tượng
.
Nhưng các nghệ sĩ và các nhà phê bình nghệ thuật vẫn còn tranh luận liên
miên về mối quan hệ giữa trường phái Lập thể và thuyết tương đối. Năm 1938,
nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật Sigfried Gideon đã bình luận:
“Phong cách Lập thể đã cắt đứt quan hệ với phép
phối cảnh thời Phục hưng. Nó nhìn các đối tượng
một cách tương đối: tức là nhìn từ nhiều điểm
khác nhau, không có điểm nào có toàn quyền ưu
việt. Và bằng việc cắt xẻ đối tượng như vậy, nó
nhìn nhận đối tượng cùng một lúc từ tất cả mọi
phía - từ trên xuống và dưới lên, từ bên trong ra
và bên ngoài vào... Thế là, ngoài ba chiều của
thời Phục hưng vốn đã tồn tại bền vững như
những sự kiện cấu thành nên không gian suốI
bao nhiêu thế kỉ, nay thêm vào một chiều thứ tư -
chiều thời gian... Sự trình bày các đối tượng từ