có khả năng như thế và việc loại bỏ thời gian trôi theo đường thẳng - hai thành
tố làm nên nền tảng của quy luật nhân quả - và những thành tố này cũng xuất
hiện trong tâm căn của trường phái Siêu thực.
Do những phi lí đến mâu thuẫn và những sự sắp đặt cạnh nhau đến bất khả,
hầu hết nghệ thuật của trường phái này thực sự đã thách thức niềm tin của
người xem về không gian và thời gian. Có một nghệ sĩ dường như đã hiểu ra
được những ngụy biện của chủ nghĩa tuyệt đối kiểu Newton, đó là Giorgo de
Chirico. De Chirico đã khởi xướng ra cái sau này trở nên một trào lưu nghệ
thuật Siêu thực ở Italia, gọi là pittura metafísica vào năm 1917. Ông đã bóp
méo không gian, nhưng dùng một phương pháp khác với những gì mà các
nghệ sĩ đi trước đã dùng. De Chirico vi phạm phép phối cảnh bằng việc khuếch
đại chiều sâu của các bức tranh, làm cho chúng nom sâu hoắm hơn thực tế.
Nhiều bức họa của ông có cái vẻ như đã được nhìn từ đầu ngược của kính viễn
vọng. Thêm vào việc bóp méo không gian, de Chirico còn đảo lộn các quy ước
quen thuộc về thời gian, bằng cách đặt vào trong các phong cảnh mơ mơ màng
màng của mình những hình người bí hiểm, tỏa những cái bóng dài ngoẵng đầy
nghịch lí dưới những vòm trời mang các màu sắc làm bối rối người xem.
Bên cạnh quãng cách giữa các âm thanh, thì những thay đổi về bóng râm do
sự quay của trái đất là chỉ báo đơn lẻ quan trọng nhất cho biết thời gian đang
trôi. Vì vậy, việc ghi lại các thay đổi về màu sắc ánh sáng ban ngày và sự bố trí
bóng nắng chính là những phương pháp chắc chắn nhất để ta đánh dấu được sự
chuyển động của thời gian. Bất kì ai, tỉnh dậy trong một căn phòng khách sạn
xa lạ từ một giấc ngủ vùi mệt mỏi sau một chuyến bay dài, thì chỉ cần đưa mắt
nhìn ra ngoài cửa sổ là có thể biết được thời gian áng chừng của ngày. Nếu
vòm trời trên đầu xanh lam trong vắt và các vật trên mặt đất đều tỏa những
bóng râm thu nhỏ nhất, thì anh ta có thể an toàn kết luận rằng thời gian đang ở
quãng giữa trưa. Còn nếu bầu trời màu hồng, hoa cà, da cam, vàng hay đỏ và
các bóng râm đổ dài, thì anh ta có thể đoán ra rằng khi ấy là bình minh hay
hoàng hôn. Nếu vòm trời độc một màu xám chì và không thấy có bóng râm
nào cả, thì anh ta không thể nào xác định chính xác được thời gian nếu không
có đồng hồ. Như vậy, tri thức trực giác của chúng ta về chiều dài của bóng râm
và màu sắc của bầu trời đã luôn luôn giúp cho bất kì người nào trong chúng ta
có thể đoán được thời gian trong ngày với một độ chính xác chấp nhận được.