và điểm cuối của nó hoàn toàn bị nhòe đi, gợi ra một ý niệm trung tâm của
khái niệm về không-thời gian. Pollock đã miêu tả quá trình ấy như sau:
“Bức vẽ của tôi không ra đời từ trên giá vẽ... Tôi
ưa xử lí với bức tường cứng hay mặt sàn hơn...
Tôi cảm thấy thoải mái hơn với mặt sàn. Tôi có
cảm giác gần gụi hơn, như là một phần của bức
tranh, bởi vì bằng cách này, tôi có thể đi vòng
quanh nó, làm việc được từ bốn phía và thật sự ở
trong bức tranh...
Tôi tiếp tục rời xa những công cụ thông thường
của họa sĩ, những thứ như giá vẽ, bảng pha màu,
bút lông, vân vân. Tôi ưa dùng những cái que,
những chiếc bay và các loại sơn lỏng nhỏ giọt
hay kiểu vẽ đắp dày với cát, mảnh thủy tinh và
các chất liệu ngoại lai khác.
Khi tôi đang vẽ, tôi không biết mình đang làm gì.
Chỉ sau một giai đoạn “làm quen với tình thế”,
tôi mới thấy ra là mình đang nhằm tới cái gì. Tôi
không hề sợ phải thay đổi, xóa hình ảnh, vân
vân, bởi vì bức tranh có một đời sống riêng của
nó. Tôi cố gắng cho nó trải qua hết để ra đời. Chỉ
khi nào tôi bị mất mối liên hệ với bức tranh thì
kết quả mới là một mớ hỗn độn, còn nếu không,
đó thuần túy là một mối giao hòa, nhịp nhàng
cho và nhận, rồi tác phẩm ra đời hoàn hảo”.
Sinh khí và năng lượng của những tác phẩm của Pollock cùng với sự mãnh
liệt của nhân cách cá nhân đã đưa ông từ chỗ không ai biết đến vụt trở nên nổi
tiếng toàn quốc, và ngay lập tức trở thành một hiện tượng xôn xao thời đó. Thế
nhưng hầu hết các nhà phê bình nghệ thuật cũng như công chúng nói chung
đều không hiểu hết được chiều sâu tầm nhìn của Pollock, Harold Rosenberg đã
nhận ra cốt lõi phong cách của Pollock và đặt cho nó cái tên “hội họa hành
động”. Năm 1956, mấy tháng trước khi ông chết, tạp chí Time nhắc đến ông