Trong tranh của Pollock, không gian được giăng mắc với thời gian trong
một ma trận. Ở tác phẩm của ông, khi sơn màu bay trong không gian, nó đã trở
thành một ẩn dụ đa tầng ý nghĩa. Tất cả các kiểu nghệ thuật trước đó đều có
một mối liên hệ trực tiếp giữa ý định của người họa sĩ và hiệu ứng của nó khi
cây bút vẽ ấn xuống mặt vải. Việc chuyển hóa này, từ ý chí bên trong thành
hành động bên ngoài, đã thể hiện nội dung cốt lõi của tính nhân quả. Tâm trí có
ý thức điều khiển bàn tay cầm cây bút ấn lên mặt vải chính là nguyên nhân của
nét quệt; vệt màu in trên nền vải - hiệu quả của nó. Bằng cách đứng lùi ra xa,
và quăng sơn màu chứ không phải trực tiếp quệt nó lên nền vải, lần đầu tiên
trong nghệ thuật phương Tây, Pollock đã tách người nghệ sĩ ra khỏi nền vải
của bức tranh. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi khi nó vượt qua không gian, sơn
mầu vẽ nên một đường chất lỏng cong trong thời gian. Tại khe hở giữa nguyên
nhân và kết quả ấy, đã xảy ra một khoảnh khắc vượt ra khỏi tầm kiểm soát.
Giống như khe hở trong một chiếc bugi, khoảnh khắc này là cái mà Aristotle
có lần đã đề nghị gọi là tiềm năng.
Trong phát biểu ban đầu của mình về tính nhân quả, Aristotle cho phép có
sự tồn tại của một tiềm năng vô định hình ở giữa nguyên nhân đang lao tới và
dấu ấn của kết quả. Nó là giao diện giữa nhân và quả, nơi mà một cái gì đó bất
ngờ có thể xảy ra. Nhưng rồi Bacon và Descartes đã đóng sập cái khe hở này
trong logic tất định của hai ông. Trong các phát biểu sau này của luật nhân quả,
không còn chỗ nào dành cho bất kì cái gì có thể chen vào giữa một hành động
và kết quả của nó nữa. Để chừa ra một khoảnh khắc đong đưa, Pollock đã tái
tạo cái khe nứt ấy, cho tiềm năng lại luồn vào xác lập bản thân. Ông hiểu rằng
cái khe hở, cái thăng giáng lượng tử, một khoảng đầy trống rỗng này - chính là
khe nứt trong vũ trụ mà qua đó mọi vật thể và hình ảnh tràn vào thế giới hiện
hữu nhìn thấy được này.
Hình như để công nhận tầm quan trọng của thời khắc chuyển đổi này trong
quá trình sáng tạo của Pollock, mà người ta đã chụp nhiều bức ảnh chụp cảnh
Pollock đang đắm mình trong điệu múa-vẽ của ông, hơn bất kì họa sĩ nào trong
quá trình sáng tạo tác phẩm của họ. Tại sao lại như vậy? Tại sao màn vũ đạo
của Pollock lại hấp dẫn hơn một bức ảnh về bất kì ai say sưa trong quá trình
sáng tạo một bức tranh? Có lẽ tấm ảnh về ông đã chộp bắt được cái đoạn
không nhìn thấy tối quan trọng trong một tác phẩm đã hoàn thành của Pollock,