tình dục. Thế nhưng khi các nghệ sĩ hát rong bắt đầu cất lời ca ngợi tình yêu
lãng mạn của triều đại vua Arthur, thì các bản tình ca của họ đã trở thành mốt
âm nhạc của thời ấy.
Cho đến thế kỉ mười ba, âm nhạc vẫn không thay đổi gì nhiều lắm, mặc dầu
cũng đã có nhiều cách tân cắt ngang dòng chủ lưu
. Vào cuối thời Trung cổ,
các chỉ huy dàn đồng ca đã cắt nhỏ giai điệu tuyến tính thành nhiều phân đoạn
và sắp xếp lại để chúng có thể được diễn xướng vượt lên khỏi khúc thức. Giờ
đây, thính giả đã có thể nghe được cùng một lúc những giai điệu xếp chồng lên
nhau ấy. Đến đầu thế kỉ mười bốn, các nhà soạn nhạc vô cùng háo hức với hình
thức âm nhạc phức điệu mới mẻ này và kiểu kí âm cũng vừa ra đời để ghi lại
nó, đến mức họ đã đặt tên cho nó là ars nova, nghĩa là nghệ thuật mới. Phức
điệu bắt đầu sự ra đời của mình vào thời điểm mà sự xuất hiện đồng thời nhiều
điểm nhìn đang ở lúc cực thịnh trong nghệ thuật, và quy luật nhân quả theo
trình tự và logic cũng chưa tái khẳng định hiệu lực của chúng, với tư cách là
những hệ thống tư duy. Các chủ đề chất chồng nhau cao ngất, sử dụng phức
điệu chính là biểu hiện không giống cái gì khác hơn là phong cách kiến trúc
Gotich. Dường như nhà thờ Gotich đã phát triển đến độ nó trở thành một sự bổ
sung cho phức điệu, điều này giống tấm tranh ghép và cửa sổ lắp kính màu ở
chỗ những khúc gián đoạn có thể kết nối với nhau để tạo ra một tổng thể thống
nhất và hoành tráng hơn hẳn.
Việc phát minh ra phức điệu đem đến khả năng phức tạp hóa bao la cho âm
nhạc. Melos modus của người Hi Lạp cổ đại đã tạo ra một đường thời gian âm
nhạc, tương tự như vectơ chiều dài trong hình học Euclid: giai điệu sẽ quyết
định chiều đi của âm nhạc theo phương nằm ngang. Phức điệu giờ đây bổ sung
vectơ theo chiều cao, và như vậy, thay vì là một sợi dây đơn lẻ các nốt, giai
điệu giờ đây là một tấm vải thính giác hai chiều, dệt đan xen các âm thanh, bổ
sung cho các tấm thảm nghệ thuật thị giác của những thời kì ấy.
Đến giữa thế kỉ mười lăm, cùng với việc phổ cập xuất hiện trở lại, phối cảnh
thị giác được khám phá và các tìm tòi khoa học được tái thực hiện, đã có hai
cách tân làm biến đổi âm nhạc. Đầu tiên là việc chuẩn hóa kí âm
, giúp cho
người ta có thể đọc các thành tố của giai điệu như đọc bảng chữ cái. Cách tân
thứ hai là chiếc máy in mới mẻ diệu kì của Johann Gutenberg, thứ đã tạo ra
khả năng phát tán nhanh chóng và rộng rãi không những lời nói đã được in, mà