“Trong một nhà thờ kiểu Roman, ánh sáng là
một cái gì đó tách biệt và đối lập với với chất
liệu nặng nề, ảm đạm, sờ thấy được của các bức
tường. Bức tường Gothic dường như có những lỗ
thủng li ti: ánh sáng lọc qua đấy, bao trùm lên nó,
hòa quyện vào nó, biến đổi hình dáng của nó...
Ánh sáng, thường bị vật chất che lấp mất, đã
hiện ra như một nguyên lí chủ động; và vật chất
chỉ trở nên thực một cách huy hoàng khi nó tham
gia và được chiếu rọi rõ bởi sự rực rỡ của ánh
sáng... Vì thế, ở phương diện quyết định này,
kiến trúc Gothic có thể được mô tả là một thứ
kiến trúc trong suốt và trong mờ”.
Mặc dù ánh sáng có một đặc tính huyền bí cho phép nó toả sáng qua vật
chất, nhưng những người thợ thủ công thời Trung cổ tái khám phá ra thủy tinh
về cơ bản cũng đã không dẫn tới việc xây dựng các cửa sổ để tín đồ có thể nhìn
xuyên qua. Không hề có một cửa sổ trong bất kì phòng hội họp nào của giáo
đoàn được đặt ngang tầm mắt. Ngược lại, thợ xây đã bố trí các cửa sổ kính
màu ở cao trên tường nhà thờ, chỉ cho ánh sáng từ trên rọi xuống. Hiệu ứng
của những tia sáng đa sắc lăn tăn nô đùa trên các cột mảnh mai bên trong nhà
thờ đã làm tăng thêm cái ý niệm rằng vật chất là vô nghĩa và không cần phải
đáng quan tâm. Ánh sáng là Thần linh. Nhà thờ không phải là một nơi mà
những con người trần thế bình thường cần được nhắc nhở hay bị xao nhãng
tâm trí bởi sự tồn tại khắc nghiệt và phàm tục của một thế giới “thực” ở bên
ngoài kia.
Thế giới quan Cơ đốc giáo về không gian, thời gian và ánh sáng đã ngự trị
tư tưởng phương Tây hơn một nghìn năm. Trong cái thời của tín ngưỡng ấy,
khoa học đã được thay thế bởi một hệ thống niềm tin thần học phức tạp, độc
đáo. Người nghệ sĩ, bắt đầu từ chỗ hầu như không biết gì, đã tạo nên các ẩn dụ
để diễn tả tính thần của thời đại. Tranh ghép đã trực tiếp khẳng định một quan
niệm mới về không gian, thời gian và ánh sáng cũng như các mặt khác của cái
thời đại đã bị rời ra từng mảnh ấy. Trong một quãng dài dằng dặc hàng ngàn
năm, phản ứng cơ bản này đối với thế giới quan thời cổ điển đã kéo dây lò xo