NGHỆ THUẬT VÀ VẬT LÝ - Trang 79

của những đường vô hình mà người nghệ sĩ đã vẽ ra trong khi phác dựng bức
tranh. Quy ước về phối cảnh chủ đạo đã chế ngự nghệ thuật từ những năm đầu
của thế kỉ mười bốn đến thập niên 60 của thế kỉ mười chín. Vật lí cổ điển ở
ngôi vua từ khoảng năm 1500 đến năm 1900. Trong những thế kỉ ấy, các
nguyên lí tương đồng của phép phối cảnh và vật lí học Newton đã thấm đẫm
mọi lĩnh vực của nền văn minh châu Âu.

Tuy đã đạt được nhiều thành tựu vẻ vang ở mức thiên tài này, nhưng Newton

cũng đặt ra một loạt những khái niệm còn khiếm khuyết liên quan đến cốt lõi
và các quan hệ giữa không gian, thời gian và ánh sáng. Ý niệm của Galileo về
sự nghỉ trong một hệ quy chiếu quán tính đã trở thành điểm xuất phát của hệ
thống Newton. Trong “Giả thuyết số 1" ở cuốn Hệ thống Thế giới, Newton
tuyên bố: “Trung tâm của hệ thống thế giới là bất động. Điều này được tất cả
công nhận, trong khi có một số người quả quyết rằng trái đất, một số khác thì
cho rằng mặt trời, được gắn chặt ở trung tâm đó”, Newton chấp nhận thuyết
tương đối của Galileo và thoạt đầu đã tìm kiếm một điểm trong không gian gần
mặt trời là điểm ở trạng thái nghỉ tuyệt đối. Ông đã cố tính toán tìm ra vị trí
của nó, có tính đến trường hấp dẫn của tất cả các hành tinh, vệ tinh tự nhiên và
mặt trời.

Cái mà sau đó có ảnh hưởng đến quan niệm của Newton về trạng thái nghỉ

tuyệt đối là hai phát kiến có liên quan với nhau. Năm 1676, nhà thiên văn
người Đan Mạch Ole Christensen Roemer đã chứng minh rằng ánh sáng di
chuyển trong không gian với một vận tốc hữu hạn. Trong lúc ca ngợi thông tin
này, giống như các nhà khoa học khác, Newton đặt ra một câu hỏi hiển nhiên:
vậy thì tốc độ ánh sáng có thể được đo bằng cái thước nào, nếu như theo
Galileo mọi vật trên bầu trời đều là chuyển động đối với các vật khác? Phát
kiến thứ hai là của Christian Huygens vào năm 1678, nói rằng ánh sáng truyền
trong không gian như một loại sóng được phát bởi một chất liệu vô hình gọi là
ether phát quang. Mặc dù Newton không đồng ý với sự khẳng định đó (ông tin
rằng ánh sáng có tính chất hạt, bao gồm các phần từ nhỏ li ti đi xuyên qua
không gian theo những tia đơn thẳng tắp), nhưng ông chấp nhận quan niệm về
một loại chất ether vô hình vô trí đó, bởi vì ông có thể dùng nó một cách tiện
lợi để truyền tải lực hấp dẫn mà ông vừa khám phá ra, cũng như trả lời cho câu
hỏi nảy sinh từ tính toán của Roemer về vận tốc ánh sáng.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.