bản thân mình – củng cố thắng lợi riêng lẻ của họ và tránh biến nó thành
một hiện tượng hủy hoại xã hội, bằng cách tiếp tục bẻ gãy “bánh tập quán”
trong môi trường xã hội của họ. Để giải quyết vấn đề này, “cần tới một nỗ
lực kép: nỗ lực từ phía một số người sáng tạo ra phát minh mới và nỗ lực từ
phía toàn bộ phần còn lại của xã hội trong việc chấp nhận nó và thích nghi
với nó. Một xã hội có thể được gọi là một nền văn minh ngay khi những
hoạt động khởi xướng và thái độ hợp tác nói trên xuất hiện đồng thời. Thực
tế là điều kiện thứ hai khó xảy ra hơn điều kiện thứ nhất. Nhân tố còn thiếu
ở các xã hội phi văn minh gần như chắc chắn không phải là các cá nhân
siêu phàm (chúng ta có lý do để tin rằng tự nhiên luôn luôn sản sinh ra một
số cá thể may mắn như vậy trong mọi thời điểm lẫn địa điểm). Nhân tố
luôn luôn còn thiếu, ấy là cơ hội để các cá nhân quý hiếm này thể hiện tính
ưu việt của mình và lôi cuốn những cá nhân khác đi theo sự dẫn dắt của
họ”.
Việc đảm bảo đại bộ phận phi sáng tạo tuân theo sự dẫn dắt của thiểu
số sáng tạo đưa tới hai giải pháp, một giải pháp thực tế và một giải pháp lý
tưởng.
“Một phương pháp có được nhờ tính kỷ luật (trong giáo dục) …
phương pháp còn lại theo con đường thần bí. … Phương pháp thứ
nhất ghi nhớ những tập quán chung về phương diện tâm linh;
phương pháp thứ hai xui khiến sự bắt chước ở một cá nhân khác,
hoặc thậm chí là một nhóm liên kết về tinh thần, nhằm tạo ra ít
nhiều sự đồng nhất với nó”.
Sự nhen nhóm trực tiếp năng lượng sáng tạo từ tâm hồn này sang tâm
hồn khác rõ ràng là con đường lý tưởng, nhưng phụ thuộc hoàn toàn vào nó
là điều không tưởng. Vấn đề lôi kéo những cá thể phi sáng tạo vào cùng
hàng ngũ với những cá thể tiên phong sáng tạo sẽ không thể thực hiện được
trong thực tế, nếu không vận dụng khả năng ngụy trang – một trong những
năng lực tầm thường nhất của bản năng con người, vốn thường đạt được
nhờ luyện tập hơn là nhờ cảm hứng.