sức hấp dẫn của triết học nhụt chí khi phải dấn thân vào con đường truyền
bá nhân danh nó. Trong thực tế triết học có tác động lên sở thích của thành
phần trí thức bác học, “thành phần ưu tú quá hiếm hoi”, giống như câu
chuyện về một thi sĩ bác học coi số lượng phát hành ít ỏi là bằng chứng
chứng minh thơ của mình là những vần thơ tuyệt diệu. Trong thế hệ trước
Seneca, Horace không hề cảm thấy phi lý khi viết những dòng giới thiệu
tập thơ triết học-ái quốc “Thi ca La Mã” của ông như sau:
“Hãy cút đi, lũ ngoại đạo đáng khinh!
Câm đi, những miệng lưỡi phàm tục
Sao bay dám làm nhơ nhuốc bài thánh ca linh thiêng,
Trong khi ta, đại giáo sĩ ở trên cao
Đang dạy cho bọn trẻ và các nàng hầu
Cách dệt nên một tầng lớp mới và cao quý hơn”.
Rõ ràng là khác xa so với những lời của Jesus:
“Các ngươi hãy ra tận đường cái, bao vây mọi người và buộc họ
vào đây, cho đầy nhà của ta”.
Chính vì vậy mà triết học không bao giờ đủ sức tranh đua với tôn giáo;
nó chỉ có thể bắt chước và nhái theo nhược điểm của những người hâm mộ
thấp kém của nó. Chính hơi thở tôn giáo đã truyền sinh khí và đánh bóng
tượng đài tri thức Hy Lạp cổ trong thế hệ của Seneca và Epictetus, vốn
đang mất phương hướng sau thế hệ của Marcus Aurelius, mau chóng trở
thành một thứ tín ngưỡng ngột ngạt, và những người kế tục truyền thống
triết học trở nên bối rối trước ngã ba đường. Họ đã từ bỏ sức hấp dẫn để đạt
tới tri thức nhưng không tìm được đường đi tới trái tim con người. Khi
không còn là nhà hiền triết, họ không trở thành thánh nhân, mà chỉ là
những người lập dị. Hoàng đế Julian đã từ bỏ Socrates để quay sang chọn
Diogenes làm kiểu mẫu triết lý của mình – và chính Diogenes huyền thoại,
chứ không phải Jesus, là nguồn gốc chủ nghĩa khổ hạnh “Cơ Đốc ” của
thánh Simeon Stylites và các môn đồ của ông. Thực tế là trong hồi cuối của
vở bi-hài kịch này, các môn đồ của Plato và Zeno đã thú nhận sự thiếu thốn