thừa nền văn minh Hy Lạp cổ, và những người này đã chứng kiến thế giới
tinh thần lẫn vật chất của mình sụp đổ hoàn toàn khi các thành phố của họ
bị cướp phá, bản thân họ cùng với những công dân tự do khác bị lôi tới chợ
nô lệ. Những người khác, đến từ “giai cấp vô sản nội địa” ở phương Đông
của nền văn minh Hy Lạp cổ, vốn đã mất hết tài sản xã hội, nhưng vẫn phải
chịu những nỗi đau khổ cá nhân do kiếp nô lệ gây ra. Có một câu nói của
người Hy Lạp cổ rằng “kẻ nô lệ chỉ còn phân nửa nhân tính”, và câu nói
này vô cùng thích hợp để mô tả giai cấp vô sản thành thị, con cháu của
những người nô lệ ở La Mã - những kẻ không chỉ sống bằng bánh mì mà
bằng “bánh mì và giác đấu” kéo dài từ thế kỷ thứ hai trước CN tới thế kỷ
thứ 6 sau CN - mãi tới khi các đấu trường bị lãng quên và bọn họ bị quét
sạch khỏi cõi đời. Cuộc đấu tranh sống còn dai dẳng này là hình phạt dành
cho thất bại của họ trong phản ứng chống trả sự nô lệ hóa, và không nghi
ngờ gì khi con đường rộng rãi dẫn tới diệt vong của họ in đầy dấu chân của
những con người thuộc rất nhiều dòng dõi khác nhau là hậu duệ của các nô
lệ trong thời kỳ đen tối nhất của lịch sử Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, vẫn có
một số nô lệ đã chống trả với thách thức và đã thành công, theo một cách
nào đó.
Một số dần được thăng tiến trong khi phục dịch chủ nhân của mình,
cho tới khi họ trở thành người quản lý những tài sản khổng lồ, thậm chí là
tài sản của Caesar; và khi La Mã phát triển thành chính quyền trung ương
của thế giới Hy Lạp cổ, nó vẫn được quản lý bởi những nô lệ đã được giải
phóng của Caesar. Một số khác có chủ nhân là người buôn bán nhỏ đã tự
chuộc thân bằng khoản tiền dành dụm mà chủ nhân cho phép họ giữ lại, và
cuối cùng họ trở nên giàu có và nổi tiếng trong giới kinh doanh của La Mã.
Những người khác vẫn là nô lệ trong thế giới này để rồi trở thành “minh
quân” hoặc người sáng lập giáo hội ở một thế giới khác, và người La Mã
chính gốc có thể vừa khinh miệt quyền thế bất hợp pháp của Narcissus hoặc
kiểu cách trưởng giả học làm sang của Trimalchio nhưng lại vừa nồng nhiệt
hoan nghênh trí tuệ sáng suốt của người nô lệ què Epictetus, mặc dù ông ta
không thể không ngạc nhiên trước sự hăng hái của vô số nô lệ và cựu nô lệ