Cũng chính người học giả đó đã bàn luận sâu về thành công của loài
cá trong thích nghi với môi trường tiến hóa từ đất liền xuống biển và từ
biển trở lại đất liền:
“Khi môi trường sống bó hẹp nơi biển cả và các loài cá thi
nhau phát triển, chúng từ bỏ hình thức tiến hóa cột sống, và thế là
hình dạng cột sống hiện nay là hình thức tiến hóa cao nhất có thể
của chúng. Từ cột sống, tỏa ra ở mỗi bên là một cái cánh xúc tu
dần phát triển thành vây trước. Ở cá mập, những xúc tu này
không còn là xúc tu nữa, mà biến thành mái chèo: các thùy đuôi
giúp sinh vật tiến về phía trước con mồi. Điều quan trọng nhất là
phản ứng nhanh nhạy và thùy đuôi ngày càng trở nên hiệu quả
cho chuyển động trong nước. Sinh vật tiền thân của loài cá hẳn đã
sinh sống trong những vũng nước cạn ấm áp, và có lẽ luôn tiếp
xúc với đáy, vì cá chào mào ngày nay có xúc tu cứ quét xuống
đáy. Tuy nhiên, một khi chuyển động mau lẹ tự phát trở thành
điều quan trọng nhất để sinh tồn, sự chuyên hóa đã khiến loài cá
bơi trong nước, nơi chúng mất tiếp xúc với đáy, và nước trở thành
môi trường sống duy nhất của chúng. Thế có nghĩa là khả năng bị
tác động bởi môi trường của chúng có giới hạn đáng kể, vì chúng
luôn có thể tiến hóa tùy theo môi trường đó…”
“Loài cá sau này sẽ tiến hóa thành động vật bậc cao hơn đó
hẳn là sinh vật không thể thích nghi với sự chuyên hóa cực độ
của vây. Thứ nhất, nó vẫn là sinh vật tiếp xúc với đáy, và vì vậy
vẫn còn bị kích thích nhiều hơn loài cá mất tiếp xúc với môi
trường rắn. Thứ hai, nó là sinh vật tiếp xúc với những chỗ cạn
nhờ chi trước, do đó chi trước không thể biến đổi hoàn toàn thành
thùy đuôi, và thế là chi trước nửa tiến hóa nửa không. Người ta
đã tìm thấy bộ xương của sinh vật như thế – sinh vật có chi trước
là bàn chân trước vụng về hơn cả vây. Và những chi này trông
như thể là bước chuyển tiếp từ vũng nước cạn sang bờ hồ tràn